15:41 - 24/04/2019
Tiêu chuẩn & Hội nhập: Với AMRU, ngoài chất lượng còn phải số hoá
Mấy hôm trước facebook một cậu bạn trẻ của tôi chia sẻ tin công ty AMRU Rice Group (AMRU) của Campuchia xuất khẩu gạo qua Đan Mạch, cậu đặt một câu hỏi, tôi nghĩ chắc là cho cậu, rằng khi nào đến lượt gạo Việt Nam?
Để trả lời được câu hỏi này, tôi thấy trước tiên nên biết AMRU đã làm điều đó như thế nào.
Nhà máy gạo làm số hoá
AMRU khởi đầu vào năm 2011 chỉ với nhà máy xay xát nhỏ.Năm 2018, họ xuất khẩu gạo tới hơn 40 quốc gia trên toàn thế giới, sản lượng gần 100.000 tấn mỗi năm. Họ đã khai phá thị trường ngách cho nhãn hiệu gạo hữu cơ của Campuchia, được chứng nhận hữu cơ USDA, tiêu chuẩn sản xuất lúa gạo bền vững (SRP) và Bình đẳng thương mại. Họ xây dựng mô hình kinh doanh cho hơn 66 hợp tác xã, gồm 10.000 nông hộ. Giám đốc điều hành AMRU là ông Saran Song, người đã tham gia diễn đàn An toàn thực phẩm toàn cầu do IFC tổ chức vào tháng 11/2018 tại TP.HCM, với vai trò diễn giả cho phiên đối thoại “Công nghệ đột phá – Số hoá hệ thống quản lý an toàn thực phẩm”.
Tính đến thời điểm hiện tại, nếu so với các công ty dẫn đầu về lúa gạo của Việt Nam, rõ ràng AMRU còn quá trẻ cho “sự chững chạc” của mình. Dường như với AMRU, chỉ chất lượng thôi là chưa đủ, đặc biệt trong thời buổi hội nhập, sự cạnh tranh diễn ra khốc liệt, thị trường quốc tế nằm trong tay các anh lớn như Thái Lan, Philippines, gần nhất là Việt Nam, và họ đã chọn số hoá. Theo chia sẻ của ông Saran Song, có quá nhiều thách thức do đặc thù sản xuất nhỏ, manh mún của lúa gạo bản xứ. Tuy nhiên ông cho rằng, số hoá là con đường phải đi, nếu muốn thị trường tin tưởng vào khả năng quản lý toàn chuỗi của AMRU, là cách họ tạo ra sự khác biệt từ nền tảng “thiếu trước, hụt sau” của một quốc gia đang phát triển.
Tôi không nghĩ số hoá hệ thống quản lý chất lượng là điều mới mẻ ở Việt Nam. Bằng chứng là một nhà máy kẹo của Hà Lan ở khu công nghiệp Sóng Thần, Bình Dương từ năm 2011 đã đưa phần mềm vào quản lý, chỉ cần cho họ số lô sản phẩm cuối, họ có thể nhanh chóng truy ra ngày sản xuất, số lượng, thông tin nguyên liệu đầu vào, nhân công sử dụng.
Hay những năm 2012, 2013, tôi hỗ trợ đánh giá tiêu chuẩn kỹ thuật cho một nhà máy thuộc tập đoàn sản xuất phụ tùng ô tô của Nhật Bản, nhận thấy họ cũng quản lý quá trình sản xuất bằng phần mềm. Tại bất kỳ thời điểm nào trong ngày, người quản lý đều có thể dễ dàng truy cập số liệu để biết đến thời điểm hiện tại, có bao nhiêu vật tư đã được sử dụng, bao nhiêu sản phẩm được làm ra, bao nhiêu còn đang trên quy trình, bao nhiêu bị lỗi.
Cả hai công ty này đã số hoá thành công hệ thống quản lý chất lượng của họ và thuận lợi hoá việc kiểm soát chi phí, cải thiện hiệu suất làm việc.Đánh giá chứng nhận nhờ đó cũng nhẹ nhàng hơn.
Với công ty 100% vốn Việt Nam, tôi biết hai trường hợp, cũng vào thời điểm đó đang loay hoay số hoá, giờ có lẽ họ đã thành công. Họ là công ty tư nhân, quy mô vừa, đều ở Đồng Tháp. Người đưa số hoá vào quản lý là con trai của hai người chủ, du học ở Mỹ về. Họ chỉ nói với tôi rằng số liệu lung tung quá, khó mà quản lý. Mỗi lần đánh giá chứng nhận là y như rằng đội quản lý chất lượng phải làm cả ngày lẫn đêm, vì buộc phải “đậu” yêu cầu truy xuất. Công ty lớn một năm tiếp cả chục lượt khách hàng thăm và đánh giá, nên phải có hẳn một đội chỉ để thu xếp hồ sơ hợp lý. Họ cho như vậy là lãng phí. Trở ngại của công cuộc số hoá với họ không ở công nghệ, mà ở tâm lý e ngại sự minh bạch của các bên liên quan.
Bớt kêu ca đi, hãy nghĩ tới thế giới bên ngoài
Quay lại với các tiêu chuẩn mà AMRU đã được chứng nhận, điều làm tôi ngạc nhiên nhất là việc họ áp dụng tiêu chuẩn của diễn đàn Lúa gạo bền vững (SRP).Có thể nói, đây là tiêu chuẩn mà sự thách thức mang tính toàn diện. Phiên bản 1.0 của tiêu chuẩn này, được công bố hồi tháng 5.2015 có đưa ra các chỉ tiêu chính gồm: cải thiện đời sống, nhu cầu tiêu dùng (trọng tâm là an toàn thực phẩm), sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, giảm biến đổi khí hậu, điều kiện lao động và phát triển xã hội (tập trung vào vấn đề trao quyền cho phụ nữ). Tiêu chuẩn này đòi hỏi sự cam kết của nhiều bên nhằm đảm bảo phát triển sản xuất gắn liền với phát triển cộng đồng. Trong khi ta còn đang loay hoay với an toàn thực phẩm thì họ đã tích hợp các vấn đề xã hội, môi trường, khoá chuỗi (bằng công nghệ số) vào hệ thống quản lý.
Tôi nghĩ đến các doanh nghiệp nhỏ Miến Điện trong chương trình xây dựng năng lực mà tôi tham gia gần đây. Cơ khí chế tạo máy không phát triển, công nghệ lạc hậu, hạ tầng quản lý chất lượng không hỗ trợ việc kiểm soát an toàn thực phẩm, ấy vậy mà tôi chưa được nghe lời kêu ca nào. Điều duy nhất họ quan tâm là giải pháp.
Khác hẳn với nhiều doanh nghiệp Việt Nam tôi từng làm việc thông qua các dự án xây dựng năng lực cạnh tranh, câu hỏi mà tôi được nghe nhiều nhất là dự án hỗ trợ được bao nhiêu, làm được tiêu chuẩn họ sẽ bán cho ai, có được giá cao hơn không.
Tôi muốn nói về cách mà doanh nghiệp chúng ta đang hội nhập. Ta nhìn ra bên ngoài, nhưng không, hoặc rất dễ dãi trong việc nhìn vào chính năng lực của ta, rằng ta sẽ sử dụng vũ khí nào để xông ra tiền tuyến, rằng điều cốt lõi nào làm ta khác biệt với trùng trùng những nhà sản xuất giống như ta, để đoan chắc rằng ta sẽ được nhà mua hàng chú ý. Lòng tin thôi chưa đủ, cần phải có bằng chứng thực và đáng tin cậy. Vậy nên, có phải ta nên dừng chăm chăm vào việc bán cho ai, bán bao nhiêu, mà cần tập trung vào trả lời các câu hỏi: ta là ai, ta đang ở đâu trong dòng chảy hội nhập, ta muốn dòng “hải lưu” này đưa ta đến đâu, và làm sao để đến được nơi ta muốn đến.
Thanh Kim (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này