15:18 - 23/01/2019
Chỉ vầng trăng y hệt ở quê nhà…
Tôi mượn câu thơ của nhà thơ quá cố Trần Từ Duy để nói giùm nỗi niềm của người Việt xa xứ. Nhưng dòng người Việt cứ tiếp tục ra đi và cứ thương nhớ quê nhà.
Có khi họ ra đi thành cả làn sóng di cư triệu người, đôi khi ra đi lặng lẽ.Và vẫn cứ thương nhớ quê nhà…
Nhiều người cho rằng, chiết tự từ Việt (trong chữ Hán) có bộ “tẩu” (nghĩa là chạy), nên định mệnh của người Việt là phải đi, phải xa quê, phải mở bờ cõi… Cứ đi hoài đi mãi, cứ thương nhớ quê nhà và ao ước quay về quê cũ.Đi là chết một mối thương. Nhớ trăm bông lúa lên đường tiễn đưa! (1)
Trong làn sóng di dân, nhiều người xúc động nỗi nhớ quê. Lời thề thốt “trở về quê sinh sống” hầu như không mấy ai nhớ… Thi thoảng, tạt ngang dăm ba phút, thắp nén nhang trên bàn thờ tổ tiên rồi quày quả ra đi…
Dễ gì chốn đất khách quê người
Chính sách nhập tịch của các quốc gia phát triển thường buộc đương đơn phải ở đủ bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng nơi đó mới được phép “thi quốc tịch”. Họ lập luận rằng “đương đơn sau thời gian vài năm sống bắt buộc nơi đất mới, sẽ thấy thích nghi, quen thuộc, yêu thích và không muốn quay về chốn cũ”.Còn nếu không chịu thời hạn “cầm tù” này thì… ai về nơi ấy, khỏi nói chuyện thẻ xanh hay quốc tịch gì nữa.
Một anh bạn, trong thời gian “cầm tù” như vậy đã bỏ tiền mời hết bạn bè từ Việt Nam qua Mỹ thuê chiếc xe đi rong chơi suốt một tháng. Hết tháng, cũng là hết ngày nghỉ phép, bạn bè quay về Việt Nam. Anh bạn tôi ở lại Mỹ buồn bã tiếp tục cô đơn trong ngôi nhà trống vắng. Anh kết luận xanh rờn: “Ở tù, thì còn có bạn tù mà chơi cho đỡ buồn. Còn ở đây không có ai cả!”
Thử thách thích nghi đến từ ngôn ngữ bất đồng, văn hoá, khí hậu xa lạ.Một anh bạn khác của tôi, nhà thơ Trần Từ Duy, đi định cư mới mấy tháng đã bỏ hết để quay về, bởi chẳng thể nào thích nghi. Thôi đành mượn đoạn thơ của anh để mà trang trải nỗi lòng của một người đã từng dấn thân xa xứ: “Người khác giọng, còn hoa thì khác sắc, chỉ vầng trăng y hệt ở quê nhà. Ta dâu bể, tưởng rằng lòng cứng cáp. Lúc trăng tàn nước mắt cứ trào ra”.(2)
Thế giới phẳng, người Việt tan loãng
Ở đất khách, người Việt quần tụ thành từng khu để mua bán trao đổi dịch vụ với nhau, hầu hết phải cộng sinh với người châu Á để sinh tồn. Những khu chợ người Việt như vậy thường nhếch nhác, nghèo nàn, rất ít bản sắc so với người Hoa hay người Ấn. Thậm chí người Việt khá giả cố tình ở các khu dân cư người da trắng, né tránh đồng hương vốn nhiều chuyện, soi mói, phiền nhiễu. Vài cá nhân người Việt có được thành tích sáng giá trên đất khách, nhưng cộng đồng, sự phối hợp lại không mấy ấn tượng.
Trong số những người quay về Việt Nam, có người chọn quê nhà là nơi an trú đến cuối đời, xin được nhắc lại, đó là những người ngoại hạng. Phần lớn vì trách nhiệm với quê hương, nhiều người mỗi năm về vài tháng trao truyền trí thức cho lớp trẻ. Có người về kinh doanh, làm ăn một thời gian rồi lại tiếp tục ra đi. Rất ít người về nước và đoạn tuyệt quốc tịch nước ngoài.Họ vẫn chừa cửa để quay lại đất khách.
Vậy cái tinh tuý của người Việt, của hồn thiêng sông núi nó ở đâu khi mà các quán quân chương trình Đường lên đỉnh Olympia đa phần chọn ở lại đất khách? Du học sinh người Việt tại các nước tiên tiến, học xong là quay quắt chạy vạy để được ở lại, nhập quốc tịch vào nước sở tại. Người trong nước thấp thỏm ra đi.Khái niệm “hôn nhân giả” đã trở thành quen thuộc. Những mã số định cư như EB5, 188 giới doanh nhân ai cũng biết rành biết rõ. Thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước thì khác. Rất nhiều du học sinh ưu tú quay về nước phục vụ quê hương, tạo thành một cộng đồng nhân sĩ trí thức, vì họ được trọng dụng, có cơ trở thành chuyên gia lãnh đạo đầu ngành trên nhiều lãnh vực.
Tự hào là người Việt, chúng ta tự hào ở đặc điểm nào? Có lịch sử hào hùng? Có quá khứ chiến tranh? Có kinh tế phát triển? Có thể các nhà Việt học sẽ phải còn tranh luận, nhưng tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta nên tháo gỡ định vị địa lý ra khỏi khái niệm đi hay về. Học xong không về cũng đâu có sao, ở xứ giàu cơ hội việc làm, đóng góp cho quê nhà lớn hơn rất nhiều so với làm việc trong nước. Thế giới phẳng mà! Quan trọng là “cái hồn, cái tình” có quay đầu cố quốc hay không?
Vốn liếng của người Việt
Vốn liếng người Việt nằm ở tấm lòng thương nhớ quê nhà chứ không phải di trú hay hồi hương. Về, có nghĩa là có còn rưng rưng khi nghe lại tiếng ru ngày xưa của người mẹ quê vất vả. Tự tình dân Việt, phần tinh tuý nhất nằm ở tình người. Thứ duy nhất mà chúng ta có thể tự hào để đem ra xuất khẩu. Nhiều Việt kiều năm nào cũng về thăm, dân bản địa thắc mắc “sao không đem tiền đó đi du lịch khắp nơi trên thế giới?”.Người Việt đất khách có thể hờn dỗi mà chán ghét người trong nước, nhưng vẫn không nguôi thương nhớ quê nhà. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tha thiết: “Như đứa con ngoan không tuyệt tình nổi với rẫy sắn nương khoai, nơi có bà mẹ suốt đời mắt không sáng nổi một ngày trẩy hội”.
Tự tình dân Việt có lẽ là tiếng vỗ tay rộn ràng khi máy bay tiếp đất đường băng Tân Sơn Nhất, là giọt nước mắt rưng rưng khi gặp người thân dưới quê đợi chờ người con tha hương trở về với vòng tay yêu thương của gia đình, dòng họ… Là vòng tay bao dung chào đón. Là bà mẹ quê bên mái tranh nghèo, nhưng vẫn đủ lòng rộng lượng không bắt đứa con đi xa phải quay về.
Mà thôi, đi và về đã hoán nghĩa cho nhau mất rồi! Việt kiều thăm quê sau mười năm xa cách, tình cờ gặp nhau ở chợ Bến Thành hỏi nhau “chừng nào trở về bển”. Về quê nay gọi là “đi Việt Nam” thì cũng chỉ là con chữ mà thôi. Chỉ có cái tình quê hương, ngàn năm thương nhớ mới là mãi mãi…
Lê Văn Chính (theo TGTT)
——–
(1)thơ Lê Văn Trí (2) thơ Trần Từ Duy
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này