12:04 - 17/03/2016
TS Phạm Sỹ Thành: Lo Trung Quốc đẩy khó sang Việt Nam
Rõ ràng, suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc – thông qua kênh thương mại – không chỉ tác động đến vấn đề nhập siêu của Việt Nam mà còn tác động rộng hơn đến nền kinh tế của chúng ta.
Kinh tế Trung Quốc đang ở trong giai đoạn cải cách đầy khó khăn khi các vấn đề cấu trúc mang tính dài hạn đã gây áp lực lên điều hành chính sách ngắn hạn, và đặt ra nhiều rắc rối cho các nhà hoạch định chính sách của quốc gia này.
Chính phủ Trung Quốc đã có một kế hoạch cải cách với tên gọi “cải cách về mặt cung” (suppy-side reform) với trọng tâm là “giảm tồn kho, giảm sản lượng, giảm nợ” và cải thiện năng suất. Khẩu hiệu cải cách này cho thấy vấn đề nổi cộm nhất của kinh tế Trung Quốc hiện nay là cung vượt quá cầu.
Có thể coi quốc gia này là nạn nhân của chính mình khi đã đầu tư quá nhiều trong suốt hàng chục năm, tạo ra một hệ thống sản xuất với năng lực khổng lồ dựa trên gánh nặng nợ nần ngày càng lớn. Cốt lõi của toàn bộ tình trạng dư thừa sản xuất dẫn đến suy giảm sản xuất công nghiệp, suy giảm tăng trưởng.
Trung Quốc có thể đối diện với “căn bệnh Nhật Bản” khi thị trường bất động sản gặp vấn đề và gây hệ luỵ hàng chục năm cho cả khu vực tài chính ngân hàng lẫn sản xuất công nghiệp. Cả năm 2015, tăng trưởng sản xuất công nghiệp của Trung Quốc chỉ đạt khoảng 0,62% – gần như không tăng trưởng.
Năm 2015, ngoại thương Trung Quốc tăng trưởng – 7% (so với mục tiêu tăng trưởng 7%), xuất khẩu đã tăng trưởng – 1,8% lần đầu tiên sau năm 2009. Đặc biệt, nhập khẩu giảm tới gần 14% cho thấy nhu cầu sản xuất nội địa của Trung Quốc rất thấp.
Tuy nhiên, bóc tách số liệu xuất nhập khẩu của Trung Quốc có thể thấy, khi hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu từ các thị trường phát triển giảm, thì xuất nhập khẩu của Trung Quốc sang/từ các nước Đông Nam Á lại tăng vọt.
Đáng chú ý, năm ngoái, Trung Quốc đã xuất khẩu tới 100 triệu tấn thép. Bản thân các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không giấu giếm khi nói rằng, việc họ đề xuất các chiến lược kinh tế quan trọng như Một vành đai, Một con đường, hay nỗ lực quốc tế hoá đồng NDT có mục đích quan trọng là để giải quyết bài toán dư thừa sản lượng trong nước.
Năm 2015, Trung Quốc đầu tư ra nước ngoài 120 tỷ USD – tương đương với vốn FDI thu hút vào trong nước. 50% trong số vốn đó là do các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc thực hiện.
Tất cả bức tranh ngoại thương và đầu tư của Trung Quốc cho thấy, việc quốc gia này đẩy hàng hoá ra các thị trường bên ngoài – đặc biệt là các thị trường Đông Nam Á và châu Phi; việc tăng đầu tư ra nước ngoài và giảm nhập khẩu từ bên ngoài là một thực tế có thể sẽ kéo dài trong vài năm tới.
Các tỉnh biên giới giáp với Việt Nam là các tỉnh xuất nhập khẩu trọng điểm của Trung Quốc với thị trường ASEAN. Chính sách chung của Trung Quốc hiện nay là khuyến khích xuất khẩu hàng hoá. Đối với hàng nhập khẩu Việt Nam, do mang tính bổ sung, chi phí vận chuyển thấp nên vẫn được khuyến khích nhập khẩu, nhưng chủ yếu qua kênh tiểu ngạch.
Tính toán cho thấy, nếu kinh tế Trung Quốc suy giảm 1 điểm phần trăm thì các nước xuất khẩu nhiều sang Trung Quốc sẽ bị suy giảm tăng trưởng 1 – 1,2 điểm phần trăm, còn các nước nhập khẩu nhiều sẽ giảm từ 0,6 – 0,7 điểm phần trăm.
Rõ ràng, suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc – thông qua kênh thương mại – không chỉ tác động đến vấn đề nhập siêu của Việt Nam mà còn tác động rộng hơn đến nền kinh tế của chúng ta.
Trước tình hình này, bài toán với xuất khẩu nông sản của Việt Nam có thể tạm thời vẫn là đa dạng hoá thị trường, trong dài hạn là nâng cao vị trí trong chuỗi giá trị thông qua việc kết nối với các công ty xuyên quốc gia để có thể lấn sâu vào các thị trường phát triển, tận dụng kết quả đàm phán của các hiệp định tự do thương mại mà Việt Nam vừa ký xong như TPP và FTA Việt Nam – EU.
Phạm Sỹ Thành
Thế Giới Tiếp Thị
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này