10:40 - 27/06/2023
Phạm Thế Trung hành trình đến nghệ thuật
Anh sống ở Canada suốt hơn bốn mươi năm, đạt được những thành tựu trong sáng tác nghệ thuật, được báo chí xứ người nhiều lần nhắc đến. Đến tuổi gần 70, anh quyết định trở về quê hương sống và sáng tác.
Từ nhỏ, Phạm Thế Trung cùng gia đình trải qua nhiều biến động do cuộc sống miền Nam thời chiến. Gia đình anh sinh sống tại làng Long Cang sát bên sông Vàm Cỏ thuộc tỉnh Long An. Sau, dời nhà ra mặt lộ chánh sát ngã ba Long Cang. Ở ngôi nhà đó, buổi tối ông Nội anh thường sai ra đốt nhang ở bàn thiên. Anh vừa cắm nhang vừa hướng mắt về phía rất xa cuối chân trời, nơi có những ánh đèn rực sáng mà anh biết đó là Sài Gòn.
Những tối đi cắm câu, anh tìm được một loại đất đặc biệt từ con “chèng heng” đùn lên ở mé sông, rất mềm và dẻo. Anh dùng nó để nắn những món đồ chơi như xe hơi, trái xoài, trái mận và những con vật thấy hàng ngày như con trâu, con cá rồi đem phơi nắng cho khô, ngắm nghía thoả thích. Buổi học thủ công đầu tiên, anh nắn trái xoài được thầy giáo khen. Mỗi tháng, anh được ông nội giao việc lau chùi mặt kiếng của bức tranh trên bàn thờ tổ tiên, vừa thổi bụi vừa thả hồn mơ màng theo cảnh núi non trùng điệp trong bức tranh. Năm 1963, mấy anh em theo ông bà Nội tản cư lên Sài Gòn vì chiến tranh. Ngày đầu tiên, Trung được bà nội dẫn vào vào chợ Bình Tây. Ở đó, chú bé bị thu hút bởi một bức tượng đồng đen, mải mê nhìn đến nỗi bị lạc cho đến khi bà Nội tìm thấy cháu đang ngắm bức tượng. Đó là tượng ông Quách Đàm, người xây chợ Bình Tây.
Sau những buổi học ở trường tiểu học Bàn Cờ, Trung lang thang đến các rạp hát vào ngày thứ Ba trong tuần khi các hoạ sĩ vẽ hình quảng cáo cho một phim sắp chiếu. Trung căng mắt quan sát, học lóm vài kỹ thuật và chất liệu vẽ màu bột trên phông vải. Ở gần đó có xưởng vẽ của họa sĩ Mai Lân, nhờ vậy Trung có chỗ để lui tới ngắm nhìn. Từ đó, những món tiền nhỏ để ăn sáng hay xài vặt Trung dùng hết cho việc mua màu, giấy và bút vẽ.
Thấy con ham vẽ hơn ham học, gia đình quyết định đưa anh lên Biên Hoà ở với gia đình chị ruột để được kèm cặp chuyện học. Người anh rể gợi ý nếu thích hội họa thì nên học cho tới nơi, phải thi vào trường Mỹ Thuật. Sau, nhớ lại lời khuyên của thầy giáo cũ, anh đạp xe ra Chợ Đồn, đón xe đò xuống Gia Định để xin tờ đơn thi tuyển vào trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật. Anh qua vòng sơ khảo bằng bức cảnh đồng quê quen thuộc rồi cuối cùng vượt qua kỳ thi chính thức, trúng tuyển.
Vào trường năm 1973, anh được học môn chánh với các họa sĩ nổi tiếng như Tú Duyên, Hiếu Đệ, Nguyễn Minh Hoàng và cô Nguyễn Thị Chín. Môn điêu khắc do thầy Nguyễn Tấn Lực dạy tuy là môn phụ nhưng được anh say mê nhất. Niên khóa 1973-1974 là thời gian chiến tranh bộc phát dữ dội sau “mùa hè đỏ lửa”. Lớp của anh với 7 học viên được chọn qua ngành ấn loát gọi là ban Thiết Ấn, được nhà trường cung cấp cho mỗi học viên một bàn vẽ có nắp đậy mở lên sập xuống với chiếc ghế đẩu màu nâu sậm, có thể là thiết kế từ thời Pháp còn lại. Nhà trường lấy nhà kho để làm lớp điêu khắc cho ban Thiết Ấn. Những giờ thực tập, thầy Lực thường ra đề tài như làm vật thể tĩnh vật hoặc sao chép lại tượng chân dung bằng thạch cao với hình mẫu trước mắt. Đôi khi thầy cho sao lại những tượng cổ Hy Lạp, đầu tượng Phật, tượng Chăm hoặc Đế Thiên Đế Thích.
Rời lớp Thiết Ấn, anh đậu vào Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn.Trường có khu vườn rất đẹp đặt những hòn non bộ và nhiều bức tượng khoả thân của các kỳ thi tốt nghiệp, là nơi sinh viên năm đầu đến vẽ những bài khảo hoạ tại chỗ. Gần đó, nhìn vào hành lang là bức tượng chân dung lớn dựng trên bục cao bằng đá nhân tạo, là tượng của vị giám đốc đầu tiên cũng là người sáng lập ra trường Cao Đẳng Mỹ Thuật: cố Hoạ sư Lê Văn Đệ. Tượng do điêu khắc gia Lê Thành Nhơn, cựu sinh viên của trường đã thành danh sáng tác.
Sau 1975, trường sáp nhập hai hệ Trung cấp và Cao đẳng gọi chung là trường Mỹ Thuật Gia Định. Hiệu trưởng mới là điêu khắc gia Nguyễn Phước Sanh. Qua năm thứ 2, điêu khắc gia Trương Đình Quế đến giảng dạy, một vị thầy phóng khoáng xem học trò như bạn bè. Khi nhạc sĩ Văn Cao vào thăm Sài Gòn, ông Trương Đình Quế đã mời đến nhà để nặn tượng. Sau, thầy Quế rời trường Mỹ Thuật chuyển sang dạy tại trường Đại học Kiến Trúc. Sau hai năm học căn bản về tạo hình môn Điêu khắc, sinh viên sang năm thứ 3 học với thầy Lê Văn Mậu, tốt nghiệp Mỹ thuật Đông Dương. Thầy Mậu mực thước trong giảng dạy, sinh viên luôn lắng nghe mỗi khi thầy giảng về Anatomy và cách hình thành bố cục sắc sảo, chi tiết của một bức tượng với người mẫu qua phương pháp tả chân hiện thực theo phong cách cổ điển của môn học này.
Du cư hay du học
Đầu năm 1980, anh tìm đường ra nước ngoài và đến Thái Lan. Trong trại tạm cư Songkla, khi rảnh anh lại vẽ và được tổ chức một cuộc triển lãm với gần 70 bức tranh ký hoạ tại chỗ, được vị mục sư Tin Lành ở đó mua giúp anh vài tấm. Sau đó, anh sang định cư ở Toronto, Canada vào tháng 6/1980.
Đến vùng đất mới, Trung và em trai được chính phủ thuê cho căn hộ để ở. Việc anh có thể làm ngay tất nhiên là vẽ tranh và nắn tượng. Rất may, chủ cho thuê nhà lại là viên chức của ủy ban văn hoá thị trấn Stratford. Ông ta giới thiệu cho gallery địa phương mua từ anh một bức tranh sơn dầu còn ông mua bức tượng chân dung do anh thực hiện với giá 500 CAD. Bước đầu có vẻ suôn sẻ khiến anh yên tâm.
Năm 1985, anh được bà Bộ trưởng Văn hoá của bang Ontario mua bức “Em bé thổi sáo và đàn tỳ bà” (Harmony) để treo ngay văn phòng bộ và để in mẫu thiệp Giáng sinh tặng cho YMCA là một tổ chức xã hội từ thiện. Cũng trong năm đó, anh có dịp nắn tượng nhạc sĩ Phạm Duy khi ông sang hoạt động văn hoá Việt tại Canada. Hiệp hội Chữ thập đỏ Canada đã tài trợ cho tác phẩm của anh tại Phòng triển lãm Nghệ thuật của Ontario, “Ánh sáng bóng tối”, vào ngày 29/1/1991. Sau đó, Đại học Toronto, Robarts Gallery trưng bày tác phẩm của anh vào tháng 6/1994. Cũng trong năm đó, vào tháng 11, anh được trao Giải thưởng của Hội đồng Nghệ thuật Ontario, “Nghệ thuật trong Giáo dục”.
Tác phẩm của anh được trưng bày tại triển lãm Safe Haven của Bảo tàng Hoàng gia Ontario từ tháng 10/1993 đến tháng 8/1996 và ngày 6/3/1997, anh đã nhận được Giải thưởng Công dân Danh dự về Nghệ thuật của Thành phố Toronto. Cũng trong năm đó, anh được Hội đồng Nghệ thuật Ontario mời làm Nghệ sĩ Nội trú tại Viện Parkdale Collegiate, Trường Trung học Lord Dufferin và Lakeshore, Học viện Collegiate.
Trở về với cảm hứng mới
Anh bộc bạch tâm sự: “Bên xứ người, tuổi tác càng cao, tôi càng vọng tưởng về quê nhà, nơi sinh ra và lớn lên. Với sự thôi thúc, tôi quyết định trở về năm 2018 sau khi về hưu và thực hiện ước mơ đi khắp đất nước để ngắm nhìn vẻ đẹp của quê hương. Sau nhiều chuyến đi, cảm xúc càng nhiều, tôi vẽ tranh nhiều hơn để dễ dàng và nhanh chóng thể hiện những gì mình cảm nhận qua các chuyến đi đó. Từ năm 2019 đến nay, tôi tiếp tục sáng tác trong những năm còn lại của mình, được khoảng 40 tác phẩm, trong đó có 20 bức tượng bằng thạch cao và đồng với chủ đề “Việt Nam, đất nước và con người” . Nhìn lại những năm ở nước ngoài sống và làm việc, tôi thấy như là khoá du học thật dài để học hỏi, quan sát nhiều tác giả phương Tây và chiêm ngưỡng nhiều tác phẩm nổi tiếng trên thế giới trưng bày trong các viện bảo tàng nổi tiếng”.
Gần đây nhất, anh tham dự cuộc Triển lãm “Cảm xúc quê nhà” vào cuối năm 2022, trong nhóm 6 họa sĩ, nhà điêu khắc lão thành tại Hội Mỹ thuật TP.HCM, là hoạt động ôn lại kỷ niệm của các cựu sinh viên Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn (nay là Trường Đại Học Mỹ Thuật TP.HCM). Các tác phẩm được thể hiện trên nhiều chất liệu như: sơn dầu, sơn mài, acrylic, điêu khắc… Phần anh là 9 bức tượng và 6 bức sơn dầu vẽ cảnh Hòn Cổ Tron (quần đảo Nam Du, Kiên Giang), Chợ chiều Mỹ Tho, Nước ròng trên xóm cầu quay Mỹ Tho, Phá Tam Giang, Cầu Thê Húc…
Tình quê lâu nay chỉ bàng bạc trong những giấc ngủ trong suốt hơn bốn mươi năm ở xứ người, một hôm chợt thức dậy trong lòng người xa xứ. Với người nghệ sĩ, tâm thức Việt đã biến thành cảm hứng sáng tạo, như ở hoạ sĩ – nhà điêu khắc Phạm Thế Trung.
Phạm Công Luận (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này