10:04 - 30/09/2022
Chọn nghề phù hợp: ‘phải, cần, nên, cố’
Việc chọn ngành nghề luôn là vấn đề quan trọng và phức tạp cho không chỉ học sinh sinh viên mà còn cả cho gia đình và nhà trường của các em.
Một ngành nghề phù hợp với những yếu tố cá nhân lẫn xã hội sẽ đem đến sự ổn định không chỉ về tài chánh mà còn cả cho việc thành công bền vững, định hình bản sắc, và hạnh phúc đời sống của một cá nhân.
Thế nhưng trong một thế giới bất định và bất ổn sau đại dịch, sự phát triển của thời đại 4.0, ảnh hưởng của mạng xã hội, cũng như những thông tin sai lạc về ngành nghề, nguy cơ sai lầm trong việc chọn ngành nghề là mối đe dọa cho hành trình tìm thành công và hạnh phúc của tuổi trẻ đang chuẩn bị bước vào đời.
Trước khi quyết định một ngành học, thông thường sinh viên được khuyên nên cân nhắc một số yếu tố, trong đó bao gồm triển vọng tuyển dụng khi ra trường, mức lương kỳ vọng, chi phí chương trình học trong suốt 4, 6, hay 9 năm tùy theo bằng cấp cuối cùng cần thiết cho việc hành nghề. Chẳng hạn một sinh viên chỉ cần 4 năm trong các ngành kỹ thuật, 6 năm trong các ngành y dược, và thậm chí 9 năm trong các công việc nghiên cứu khoa học xã hội. Ngoài ra, các yếu tố khác như mục tiêu học tập và nghề nghiệp, tính cách cũng như sở thích cũng cần phải được cân nhắc.
Trong môi trường học tập ở các nước tiên tiến, khi việc chọn chuyên ngành không cần được quyết định trong hai năm đầu, sinh viên thường được khuyên ghi danh để trải nghiệm nhiều môn học khác nhau phù hợp với mục tiêu của mình trong thời gian học chương trình giáo dục tổng quát [general education]. Hơn thế nữa, một sinh viên có thể chọn 2-3 ngành chính và ngành phụ, nếu thời gian và điều kiện tài chánh cho phép. Sinh viên luôn được khuyến khích tìm kiếm thông tin từ bạn học và giảng viên của các ngành học mà mình quan tâm. Việc tư vấn này không chỉ giới hạn trong những cuộc nói chuyện không chính thức, mà quan trọng và hữu ích nhất là thông qua phòng tư vấn về ngành nghề thường nằm trong khuôn khổ phòng tư vấn học tập [academic advisement office] hay tham vấn [counseling office] cả ở các trường đại học lẫn cao đẳng.
Có một điều cần lưu ý là việc chọn một ngành học không nhất thiết là một sinh viên đã chọn một nghề duy nhất. Chúng ta cần phân biệt giữa ngành và nghề ở chỗ này. Từ ngành tâm lý với bằng cử nhân, một sinh viên có thể làm nhiều nghề khác nhau với vốn kiến thức căn bản về tâm lý con người của mình; chẳng hạn, kinh doanh, cán sự xã hội, khai vấn, quản lý sinh viên, tư vấn hoạt động học đường hay tổ chức cho giới trẻ, v.v… danh sách nghề có thể lên đến hàng trăm tùy theo sự phát triển của xã hội. Một số nghiên cứu về chiến lược kiếm việc làm với bằng cử nhân tâm lý cũng được nghiên cứu, chẳng hạn, nghiên cứu của Paul I. Hettich và R. Eric Landrum trong năm 2014 với tựa đề “Bằng Cử Nhân Tâm Lý: Từ Đại Học đến Sự Nghiệp.”
Ngược lại, một nghề trong thế giới hiện nay cũng đòi hỏi kiến thức từ nhiều ngành khác nhau. Có thể nói hầu hết mọi công việc đều đòi hỏi nhiều kiến thức để đạt hiệu quả. Chẳng hạn một phóng viên cần có kiến thức từ nhiều lãnh vực khác nhau để có thể viết về nhiều chủ đề khác nhau; một trình dược viên sẽ cần kiến thức về thuốc men, bệnh tật, và kinh doanh. Ngay cả một bác sỹ ngày nay cũng cần nhiều kiến thức về tâm lý để có thể giao tiếp với bệnh nhân hiệu quả hơn, đó là chưa nói đến nhu cầu thông hiểu tương quan giữa thân và tâm để có thể chẩn đoán và điều trị hiệu quả hơn. Đó là chưa nói đến những nghề khá đặc thù của thời đại mới như một Youtuber về ẩm thực thế giới chẳng hạn; họ phải biết về nấu ăn, ẩm thực, văn hóa, kinh doanh, diễn xuất, v.v… Điều may mắn là với phương tiện tự học phong phú hiện nay, một sinh viên không nhất thiết phải có năm sáu bằng cử nhân hay thạc sỹ để làm một nghề đòi hỏi kiến thức và kỹ năng như thế mà chỉ cần có khá năng tự học.
Trong những tài liệu phổ thông về việc chọn ngành nghề trong vài năm qua, mô hình Ikigai trở nên nổi bật với cam kết sẽ đem lại cho “tín đồ” một đời sống hạnh phúc lẫn thành công qua việc chọn lựa ngành nghề đúng đắn và phù hợp nhất. Ikigai có thể hiểu là giá trị trong cuộc sống, cảm hứng sống, hay lý do để sống. Có thể hiểu Ikigai là tìm kiếm niềm vui trong cuộc sống thông qua việc có một mục đích sống. Chơi chữ bằng tiếng Anh chúng ta có thể cho rằng với việc có một aspiration [hy vọng hay tham vọng thành tựu] chúng ta sẽ có inspiration [niềm hứng khởi hành động và sáng tao]. Trong bài viết của mình, tác giả Michiko Kumano cho rằng ikigai là một trạng thái hạnh phúc có được từ việc sống hết mình với các hoạt động mà mình yêu thích và điều đó đem lại cảm giác trọn vẹn cho cuộc sống của bản thân.
Trong cuốn “Ikigai: Bí mật của người Nhật về một cuộc đời trường thọ và hạnh phúc” [Ikigai: The Japanese secret to a long and happy life] hai tác giả Hector Garcia và Francesc Miralles đề ra mười “điều răn” để thực hiện được cuộc sống viên mãn ấy:
– Đừng về hưu; tiếp tục hoạt động
– Sống chậm
– Đừng ăn no
– Có bạn bè tốt chung quanh
– Giữ sức khỏe cho ngày sinh nhật kế tiếp
– Cười
– Tái kết nối với thiên nhiên
– Tỏ lòng biết ơn
– Sống trong khoảnh khắc
– Và theo ikigai của bạn
Không biết hai tác giả này thực sự có làm một nghiên cứu văn hóa hay thống kê nghiêm túc nào với những lão ông và lão bà sống ở Okinawa, nơi có tỉ lệ dân cư sống thọ nhất ở Nhật hay không để có thể đưa ra mười điều tâm niệm nói trên. Tuy nhiên dường như nó khác hẳn ý nghĩa hạn hẹp của việc chọn ngành nghề của một mô hình Venn lâu nay vốn phổ biến tại Việt Nam. (xem hình 1)
Thật ra mô hình phổ biến này do Marc Winn đề xuất vào năm 2014 khi kết hợp mô hình ý nghĩa cuộc sống [Venn diagram of Purpose] và khái niệm Ikigai. Để bảo đảm một công việc mang đến lẫn thành công và hạnh phúc, Marc Winn đề nghị nghề nghiệp được chọn cần 4 yếu tố: những gì bạn giỏi, những gì bạn thích, những gì thế giới cần, những gì xã hội (hay nhà tuyển dụng) sẽ trả tiền cho bạn. Mô hình này quả thật giúp học sinh sinh viên xác định được ngành nghề khá dễ dàng hơn và một số doanh nghiệp cũng sử dụng nó để giúp nhân viên hạnh phúc hơn trong công việc để từ đó tăng hiệu suất và doanh thu.
Từ mô hình này, nhiều bản câu hỏi cũng được thiết kế để giúp sinh viên học sinh nhận diện được 4 yếu tố này trong đời sống của mình. Chẳng hạn vói yếu tố “sở thích” (cái bạn yêu thích), chúng ta có thể tự hỏi mình thích làm việc với người hay vật, với tập thể hay cá nhân, có những đam mê gì, việc nào đem đến tâm trạng hứng khởi tích cự, v.v…; hay với yếu tố “sở trường” (cái bạn giỏi giang), chúng ta có thể tự hỏi bản thân thường đạt điểm cao ở môn nào, môn nào học như chơi, thường tự tìm tài liệu môn nào để đọc thêm, có bằng cấp và kinh nghiệm ở lãnh vực nào nhất, v.v… Riêng hai yếu tố còn lại, thật ra chúng ta có thể gộp lại làm một và gọi chung là “sở dụng,” ngành nghề xã hội và cả chúng ta có thể sử dụng được. Khi xã hội có nhu cầu, và chúng ta có năng lực để cống hiến thì theo quy luật kinh tế thị trường chúng ta sẽ có thu nhập, nghĩa là sẽ có người trả cho chúng ta để làm việc chúng ta giỏi và thích.
Riêng tôi vẫn thấy các điều phải làm theo mô hình Ikigai và 3 hay 4 yếu tố để chọn ngành nghề do Marc Winn đề nghị còn thiếu sót. Nếu “10 điều răn” của hai tác giả Hector Garcia và Francesc Miralles là những điều “phải, cần, nên, cố” nếu bạn muốn đạt được hạnh phúc và trường thọ thì yếu tố sở thích và sở trường do Marc Winn đề xuất dựa theo các bản trắc nghiệm nghề nghiệp rất phổ biến gần nửa thế kỷ qua cũng chỉ là hai khía cạnh tương đối bề mặt của hoạt động tâm trí của chúng ta. Chúng ta có thể tự vấn cho căn để hơn, điều gì khiến chúng ta yêu thích hay trau giồi tích cực một kiến thức và một kỹ năng hay một ngành nghề. Ảnh hưởng của truyền thông xã hội, của phim sách chúng ta đọc xem từ ấu thơ, ngành nghề cha mẹ áp đặt và chúng ta muốn làm hài lòng để nhận được yêu thương, v.v…
Xem chừng ở giữa 3 yếu tố sở trường, sở thích, và sở dụng chúng ta vẫn phải trả lời một câu hỏi quan yếu nhất: chúng ta là ai và sống ở đời này để làm gì, và ngành nghề chúng ta chọn có phù hợp với những giá trị cốt lõi của chúng ta hay không.
TS Lê Nguyên Phương (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này