10:01 - 22/01/2017
Ở đó tôi nhìn thấy biển
Trên đường Hoàng Diệu, quận 4, xế đối diện chung cư H2, có một nơi kê một chiếc bàn dài mỗi sáng từ khá sớm. Ở đó, tôi luôn luôn nhìn thấy biển.
Chiếc bàn bày đủ loại cá biển, từ cá bớp, cá đối cồi, cá ngừ, cá hồng, cá nục gai, cá chỉ vàng, cá đục, cá mú, cá bã trầu, cá chim, cá dìa, cá đuối, mực, mực tuộc, v.v. và hai loại cá nước ngọt – cá thát lát đã nạo thịt và cá hồi. Mỗi sáng đi làm tôi đều chạy ngang chiếc bàn cá này. Tôi đều nhìn thấy biển ở đó. Ngoài những lúc mua cá, có khi không chịu được, tôi tắp xe ghé vào. Chỉ để nhìn thấy biển qua cái bàn cá.
Bàn cá ấy còn phong phú loại cá hơn cả bến cá quê tôi. Ở cái bàn cá ấy, tôi nhìn thấy bến cá quê nhà, thấy cảnh họp chợ cá. Ngửi thấy mùi cá, mùi biển, mùi muối. Nghe thấy gió biển hây hây, nghe tiếng sóng biển lô xô đổ vào bờ, nhìn thấy những con tàu về bến dập dềnh. Ở đó tôi buồn khi nghe tin cá chết hôm 24/11 ở vùng biển vũng Sim, kéo dài từ thôn Tuần Lễ, xã Vạn Thọ đến thôn Vĩnh Yên, xã Vạn Thạnh, thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà. Tôi buồn vì người dân đổ xô ra vớt cá chết đem đi đâu không biết…
Ở đó tôi nhìn thấy mình đang đi trên con tàu từ bến Vạn Thạnh ra Đầm Môn. Đảo Đầm Môn hồi những năm 1980 chưa có đường bộ từ đất liền ra. Một thời biển rất không mặn mà đón khách, đi ra đảo như thế phải xin phép. Chuyến ghe đưa tôi và người thầy đi châm cứu từ thiện cho những người dân nghèo bị bịnh. Nằm gối đầu trên ghe, tôi còn nhớ, thầy Nguyễn Văn Vĩnh, cha sở nhà thờ Vạn Giã, nói: “Để cho huyệt phong trì kê lên be ghe giống như châm cứu chạy điện, tốt cho tuần hoàn não…” Tôi thấy mình được ngư dân đãi một bữa cháo mực cơm mà hàng quán Sài Gòn hiện nay hay gọi là mực sữa. Thứ mực này thời ấy thường bị kết tội là kẻ phá bĩnh. Hễ ghe vừa bật chùm đèn néon để dụ cá đến thì chúng đã bu trắng lại ánh đèn, chẳng bắt được cá gì. Mực cỡ đó người dân không ăn. Thiên nhiên bấy giờ còn giàu có và bao dung độ lượng vô cùng. Hào phóng đúng hơn. Biển như một vòm tử cung mẹ khổng lồ nuôi lớn người dân bao đời…
Ở đó tôi nhìn thấy một làng cá “bần cố ngư” tại Bình Sơn, Quảng Ngãi. Làng nhỏ xíu, trong đó nhà nhà như những phân tử nối kết với nhau bằng những “nối đơn”. Những nối ấy là đường mà không hẳn là đường. Chúng chỉ đủ cho một xe gắn máy chạy hết rẽ phải rồi rẽ trái – những nối đơn không dài, ngoằn ngoèo. Ở làng ấy, đàn ông đi biển xa có khi cả tháng mới về. Đàn bà đi biển gần, hằng đêm. Sóng biển như tiếng kinh cầu cho sự may mắn vĩnh hằng. Sáng về, họ với những chiếc thuyền thúng vào bờ, với mớ cá những năm 2000 đã không còn nhiều như xưa. Một số thanh niên bỏ biển, bám vào công trường của những dự án lớn tại địa phương…
Ở đó, tôi nhìn thấy mâm rượu của những ngư dân Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, sau một đêm đánh cá bày một chiếu nhậu. Bữa nhậu đó thường có một tay đờn đệm cho họ nghêu ngao tình ca boléro đương thời không được ủng hộ. Cho đến khi, những người đàn bà tới ngồi vào chiếu rượu. Để cho ông chồng có thể về ngủ đặng tối đi biển, mỗi người vợ đã uống một hơi mười ly rượu theo đúng luật vào ba ra bảy. Các ông chồng được giải phóng, theo vợ ra về. Chiếu nhậu giải tán. Nghĩ lại kiểu đánh giã cào ven bờ của làng Vạn Thắng, từ đó có tên Vạn Giã của quê tôi, tôi thấy buồn, vì biển bị huỷ hoại tàn khốc mấy chục năm nay. Nhưng cá đem về từ những ghe ấy góp phần tạo nên món chả cá lừng danh thiên hạ. Chả cá không đâu ngon bằng Vạn Giã, dù là chả cá Nha Trang, Phan Rang, Vũng Tàu…
Biển mở ra cho họ những chân trời mênh mông. Cũng chính biển giúp Nguyễn Trãi cảm nhận được sự hoà đồng giữa thuỷ và sơn, khi ông đứng trên đỉnh Yên Tử:
Mắt dõi nhìn tận cùng ngoài biển biếc, người nói cười ở giữa tầng mây xanh (Đề Yên Tử Sơn Hoa Yên Tự).
Khởi Thức
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này