10:16 - 08/09/2019
Tính công cộng và môn giáo dục công dân(*)
Từ “công cộng” có rất nhiều nghĩa, cũng giống như từ “public” trong tiếng Anh. Điều này cần dạy cho trẻ em từ nhỏ và dạy có hệ thống suốt 12 năm.
Tính công cộng là từ ngữ chỉ trường hợp diễn ra công luận đối lập với truy tìm lợi ích tư nhân (private) hoặc là từ được công luận dùng đối với lĩnh vực phải truy tìm công ích. Trong các trường hợp này thì nó cũng còn dược dịch là khu vực công cộng, Trong trường hợp luận bàn về tính chất công việc và giá trị cần phải tìm kiếm trong lĩnh vực, khu vực đó, nó thường được dịch là tính công cộng.
Ở quốc gia mà quyền bầu cử và quyền từ chối bầu của quốc dân được mở rộng, và cho dù không phải là nhà tư sản, cũng có trong tay văn hoá và sự phong phú về kinh tế, chắc chắn tất cả quốc dân đều có thể tham chiếu các vấn đề công của quốc gia, xã hội với lợi ích công cộng và tạo ra sự tranh luận công bằng. Tuy nhiên, trong lịch sử thế kỷ 20, công luận đã không thể ngăn được hai cuộc chiến tranh thế giới khiến cho rất nhiều người chết, không ngăn được sự độc tài của chủ nghĩa phát xít và sự phát triển, phát tán của vũ khí hạt nhân. Thêm nữa, khuynh hướng bất tín, coi thường chính trị trở nên mạnh lên và con người mất đi lòng tự hào cùng trách nhiệm của người làm chủ, sa vào hố thẳm của dục vọng và mối quan tâm cá nhân. Tại sao toàn thể quốc dân đã có điều kiện nắm trong tay tính công cộng, lại làm nảy sinh ra tình trạng như trên?
Sự triển khai trong lịch sử
Trong lịch sử phương Tây, sự phân biệt công và tư bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại.Cuộc sống công cộng (chính trị) ở các quốc gia đô thị (Polis) được tạo nên bởi sự đối thoại của thị dân bình đẳng ở các quảng trường. Thị dân là người đứng đầu từng gia đình, và ở đây quá trình tái sản xuất tạo nên kinh tế gia đình được dựa trên cơ sở lao động nô lệ. Sự phân biệt giữa Political và Economic bắt nguồn từ đó và tương ứng với nó là sự phân biệt giữa công và tư. Vào thời trung đại, cuộc sống của cư dân trong lãnh địa bị lôi cuốn vào kinh tế của chủ lãnh địa và khu vực công cộng được tạo dựng từ công luận không hề có.
Đến thời cận đại, chế độ phân quyền trung đại đã bị tập trung vào tay vương quyền tuyệt đối và tạo nên chính phủ và chính trị quốc gia lãnh địa. Mặt khác, từ cuối thời trung đại, kinh tế hàng hoá phát triển dưới mở rộng của vương chính tuyệt đối, đã tạo tầng lớp thị dân giàu có, có thể bình đẳng với quý tộc.Những người này trước tiên đã tạo nên địa điểm dành cho công luận với tư cách là các salon nghệ thuật, và cuối cùng thì phát triển nó thành salon chính trị. Thị dân, để bảo vệ lợi ích kinh tế đã phản kháng lại quyền lực quốc gia, và yêu cầu nhà nước phải có quy phạm pháp luật bảo vệ sự phát triển kinh tế. Yêu cầu này đã hình thành nên triết lý chính trị phổ biết như lý tính, nhân quyền, và điều này thông qua công luận ở khu vực công cộng mà trở thành nguyên lý dân chủ thời cận đại.
Xã hội cận đại khi phát triển kinh tế và độc chiếm tư bản thì phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, khi đó cùng với sự phát triển của sự đại chúng hoá xã hội và phương tiện truyền thông đại chúng, sự thống trị và quan liêu hoá cũng khuếch đại theo, khiến cho trật tự vốn tồn tại cho đến thế kỷ 19 sụp đổ, làm sinh ra chủ nghĩa toàn trị. Tấn bi kịch này được triết gia Hannah Arendt phân tích rằng, nó bắt nguồn từ sự thiếu vắng của tính công cộng và cần tới sự phục hoạt lĩnh vực công, đảm bảo hoạt động theo mối quan tâm tới công cộng một cách thuần khiết.
Mặt khác, triết gia Habermas – người dựa trên sự khảo sát lịch sử tương tự – lại cho rằng, con người hiện đại trở thành client của quốc gia và bị quyền lực quốc gia cai trị một cách tinh vi và thế giới bị thuộc địa hoá. Tuy nhiên, họ lại có quyền lực phản kháng, thông qua sự phê phán của truyền thông và có khả năng tiến hành công luận ở thời hiện đại, với tư cách là hành vi giao tiếp. Cuộc tranh luận về tính công cộng 40 năm về trước này đang được tái quan tâm nhiệt thành trở lại, khi diễn ra quá trình dân chủ hoá ở các nước trung cận đông.
Thêm nữa, sự tranh luận về tính công cộng trong kinh tế học công cộng và lý luận tuyển chọn công cộng, là một thủ pháp trong kinh tế học và tương đối khác biệt so với cuộc tranh luận nói trên.
Những năm gần đây, từ quan điểm cho rằng người Nhật đang thiếu trái tim và sự tự giác hướng đến cái chung, cũng có luận điểm cho rằng cần phải phục hưng tính công cộng đó.
Sự đối xử với tính công cộng trong giáo dục công dân
Nếu như kinh tế thị trường là vạn năng, thì giáo dục công dân trở nên không cần thiết.
Sự thất bại của thị trường, sự cần thiết của chính sách công cộng và việc xã hội hiện đại làm cho tính công cộng suy giảm, là những sự thực lịch sử trở thành căn cứ cho việc cần thiết phải giáo dục cho học sinh về những thứ thuộc về công cộng. Vậy thì giáo dục năng lực tranh luận về lợi ích công ở những nơi vượt qua lợi ích cá nhân như thế nào? Đây là vấn đề đặt ra đối với giáo dục tính công cộng, vốn được giao phó cho giáo dục công dân.
Tuy nhiên, nếu chỉ nhồi nhét đạo đức kiểu nhấn mạnh trái tim đạo đức công cộng, nâng cao mối quan tâm tới chính trị qua mô phỏng các cuộc bầu cử, mà không có tranh luận chính trị, thì sẽ mắc sai lầm trong giáo dục tính công cộng.
Sự tranh luận trong khu vực công cộng là điều kiện không thể bỏ qua, là quy tắc đạo đức đông đảo mọi người thừa nhận. Chỉ có cách là chúng ta phải tin vào sự thảo luận với tư cách là hành vi giao tiếp, rèn luyện và làm sâu sắc nó bắt đầu từ những nơi mà sự minh bạch của cái thiện công cộng và hình dáng của lợi ích công cộng, chưa được rõ ràng.
Nguyễn Quốc Vương
(Chuyển dịch từ Từ điển giáo dục môn xã hội, NXB Gyosei, 2000)
Theo TGHN
—————–
(*) Tựa do biên tập đặt
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này