14:50 - 07/02/2024
Cái ‘Tôi’ dễ vỡ
Mai mốt, kênh đào Đế chế Phù Nam sẽ khiến những cái Tôi ở hạ lưu mong manh, dễ vỡ hơn nữa khi tài nguyên nước ngọt trở thành con tin ở thượng nguồn. Bền vững ở vùng hạ lưu đòi hỏi bản lĩnh kiên cố hơn, nhưng tìm đâu ra?
Trắng da vì bởi má cưng
Đen da vì bởi em lội bưng vớt bèo
1.
Từ chiếc cầu này trở vô là bưng ranh. Người ta nói bưng (péang) là vùng đất trũng thấp, nước đọng nhưng không quá sâu, có nhiều tôm cá sống chung với sậy, đế, đưng, năn, lác…
Bây giờ có thấy gì là bưng không? TS Dương Văn Ni, nhà nghiên cứu đa dạng sinh học đánh tiếng.
– Dạ, không! Ai đó trả lời.
Có sự khác biệt giữa các miệt (miệt đồng, miệt vườn, miệt bưng, miệt biển) nếu không thấy mà cố làm cho giống nhau – trước hết là làm tiêu tính đa dạng sinh học, TS Dương Văn Ni nói.
Miệt bưng vừa đi qua, năm nay thu nhập người trồng lúa ngon lành nhưng ở khúc này tháo nước ra gieo sạ thì nội ô Cần Thơ ngập; người này được mà người kia phải trả giá là không có bền vững. Muốn bền vững thì phải xét 5 tiêu chí: 1/Bền vững về mặt môi trường (không làm ô nhiễm đất, nước, không khí; không suy giảm đa dạng sinh học, suy thoái đất, nguồn nước…); 2/Bền vững về gia đình (mối quan hệ chồng vợ, cha mẹ với con cái, con cái với người già…); 3/ Bền vững về mặt cấu trúc xã hội (hộ gia đình với gia đình; gia đình với đoàn thể, với cộng đồng, với chính quyền); 4/Bền vững về mặt văn hóa: ứng xử giữa con người với con người, với xóm giềng, xã hội, chính quyền, đoàn thể; 5/Bền vững về kinh tế thì sinh kế phải bền vững mà sinh kế bền vững là phải vận hành hài hòa 4 mặt đã nói trước đó, TS Ni chia sẻ.
Nếu một nông dân kêu bán lớp đất mặt, mỗi công được 6 triệu. Có người tới chở đi để lắp vườn, lắp ruộng và anh nông dân có tiền cho con đi học, mua sắm trong gia đình nhưng bền vững không thì không biết. Số tiền đó cho con đi học mỗi tháng kha khá thì cũng có sinh kế nhưng bền vững không thì chưa biết.
Vùng Tam Nông, những năm 1978, khi tôi cùng đoàn Hà Lan vác khoan đi ngang vùng này chỉ có một cái nhà – duy nhất – ở ngay ngã tư, bán tạp hóa, xăng dầu. Nay mật độ dân cư quá dày, có vẻ sầm uất nhưng bền vững không thì chưa chắc.
Bao bọc Đồng Tháp Mười xưa là bưng biền, đã nhường chỗ cho những con đường láng nhựa thẳng tắp chia đôi cánh đồng; một bên nước ngập không một bóng người, bên kia là những thửa ruộng ráo nước có vẻ như đã xuống giống rồi, nổi lên trên cánh đồng là những vườn cây trồng mít, trồng dừa… được chủ nhân cá tính hóa – có khi vài ba công đất, thậm chí vài trăm thước vuông. Một dạng phân mảnh chưa từng có.
TS Dương Văn Ni, TS Lê Anh Tuấn, TS Trần Triết, TS Lê Phát Quới, đồng hành trên chuyến xe trở lại bưng biền có vẻ bất an khi nhìn vẻ ngoài mượt mà cây trái, sự khoáng đạt của những cánh đồng được tắm gội, rửa phèn đang thiếu nước và ở đâu đó trong Đồng Tháp Mười đang đứng trước nhiều thách thức khi nguồn nước ngọt bị cạn kiệt…
“Cố giành lấy sinh kế, người tại chỗ đã băm nát Đồng Tháp Mười”, TS Lê Phát Quới, Trung tâm Khoa học Môi trường và Sinh thái TP. HCM, tiếc rẻ, nói.
2.
Khoan nói chuyện xung đột trong sinh kế, coi kìa – trên cánh đồng thợ cày đang làm đất, một đàn cò trắng nhẫn nha xếp thành hàng gần đó – Hình ảnh thân thiện hiếm có… TS Dương Văn Ni ghé lại cơ sở sản xuất “Mật ong Hương Tràm Hút Dẻo” ở Tân Công Sính – người mà ông phải cam kết khi đưa tên vào danh sách tham gia dự án cải thiện sinh kế.
Dạ, đó là ba má con, Trần Thành Long, con nhà Hút Dẻo nói.
Bao nhiêu bằng khen bít hết tấm vách, khen từ chuyện nuôi ong, tạo việc làm tới việc mua xe cứu thương làm từ thiện. Nuôi ong giỏi mới có điều kiện làm việc thiện với cộng đồng là gia đình Hút Dẻo này đây, một chị ở Hội Phụ nữ nói.
Tàu kéo nhà Hút Dẻo là Trần Thành Long – “tử tế”. Long tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Ngữ Văn, công tác tại Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh huyện Tam Nông từ năm 2013, khởi nghiệp từ 50 triệu đồng với khát vọng nuôi ong lấy mật.
Einstein từng khẳng định nếu ong mật biến mất khỏi thế giới, con người cũng sẽ chỉ sống thêm 4 năm, có thể Long đọc được điều này. Nhưng chỉ trong một tháng dự án đầu tư mất trắng khi đàn ong chết sạch. Cũng là lúc Tiến sĩ Michael Pocock đính chính: “Hoàn toàn không có bằng chứng nào cho thấy Einstein từng nói như vậy”.
Đối với Long, rừng Tràm đặc dụng – khu Ramsar Tràm Chim – mỗi buổi hoàng hôn buông màn, chim muông về tổ; bông tràm soi bóng lung linh, huyền ảo. Anh dành thời gian phân tích 2 đợt trổ bông, từ tháng 8 đến tháng 10 và từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, rừng tràm trổ bông, phấn hoa rừng không chịu ảnh hưởng thuốc bảo vệ thực vật sẽ là nguồn mật tinh tươm. Đó cũng là môi trường thuận lợi để nuôi và nhân đàn ong Ý.
Tới nay, Long học được cách nhân đàn, nuôi dưỡng 600 đàn ong chuyên lấy mật trong rừng ngập nước rộng 3.000 hecta ở Vườn quốc gia Tràm Chim. Mỗi tháng cơ sở sản xuất “Mật ong Hương Tràm” bán ra từ 200 – 250 lít mật ong tự nhiên.
“Trong mật ong Hương Tràm có tinh dầu tự nhiên, người quen dùng nói mật này giúp ngủ ngon hơn”, Long nói.
Trần Thành Long đạt giải 3 Cuộc thi Dự án Khởi nghiệp tỉnh Đồng Tháp và đạt giải khuyến khích cuộc thi dự án khởi nghiệp nông nghiệp toàn quốc do Trung tâm BSA tổ chức. Đó là lần đầu anh nói về việc chung sống bền vững giữa đàn ong Ý trong môi trường Ramsar. Cách sinh kế mới khiến gia đình Hút Dẻo tiến sâu vào thị trường mật ong tự nhiên – dự kiến đạt 10,53 tỷ USD vào năm 2023 và tăng trưởng với tốc độ CAGR là 5,20% để đạt 13,57 tỷ USD vào năm 2028.
Ở sâu trong Đồng Tháp Mười, năm ngoái giá cá lóc đầu nhím 46.000 đ/kg, thu nhập khá. Năm nay, lái cho giá thấp hơn năm ngoái tới 20.000 đ/kg. Loài này háo ăn, mau lớn nên cá tép tạp nham, cá rô phi… cỡ nào cũng thành vật “ hiến tế.” Không đủ cá tạp làm thức ăn nên mỗi ngày HTX phải tốn thêm vài triệu đồng mua thức ăn công nghiệp, chịu trận từ nay tới giữa tháng Chạp để có 8 tấn cá. Nếu tiếp tục thất giá thì 50 ha ruộng nuôi cá sẽ vỡ trận! Anh Út, phó giám đốc HTX Thạnh Phát, huyện Tân Hưng, Long An, nói.
Cá rô phi lớn lên từ Đồng Tháp Mười, con nhỏ thì làm thức ăn nuôi cá lóc, con lớn – bỏ vô cối nhồi thật lâu để làm chả.
Cắt từng miếng chả để lên dĩa rau, tươm tất và sành điệu như quán ăn ở Kiến Tường, Mộc Hóa. Anh Út khoe mồi bén do bà xã anh làm là chả cá rô phi ép mỏng như bánh phồng, nướng hay chiên tùy thích – kiểu gì thì nó cũng dai, ngon, bùi, béo, thơm tho.
Trước nhà là kênh 79 chia đôi cánh đồng. Năm ngoái thả cá bên kia nhưng từ hồi giá lúa trên 9 ngàn đồng một ký, ai nấy bỏ cá lo làm lúa vụ ba nên phải dời qua bên đây tận dụng ruộng sâu, bờ bao thả tiếp.
Từ Cai Lậy, Tiền Giang, vô Đồng Tháp Mười năm 1994 (tuổi 26), trai tráng sung sức phá rừng tràm, khai khẩn thành đất thuộc, trồng lúa, nuôi cá, sắm máy móc làm dịch vụ… chuyện gì anh Út cũng trải qua hết rồi, nhưng chưa có cái nào tròn trịa!
Hồi xưa ham khai phá, mở rộng đất thuộc được 8 mẫu (80 công đất), bán đất lấy tiền mua máy xới tay, rồi máy xếp dảy, về Cai Lậy kéo người lên cắt gom lúa. Tới chừng có máy liên hợp, lẹ lẹ bán máy nhỏ, mua máy lớn, cũng chưa ăn thua! Lại phải bán đất – mỗi mẫu hai chỉ rưỡi vàng chứ mấy – đổi qua máy Kubota 4500, hai ba năm sau mới mua thêm một chiếc nữa… nhưng ruộng từ 80 công chỉ còn 14 công. Bây giờ giá đất cao quá rồi, không mua lại được nữa! Anh Út ở tuổi 56 tóm lại hành trình gần ba thập niên theo đội hình “lấp kín Đồng Tháp Mười”, mất hứng khi hiểu rằng ngày nay người đời hay khoe của, đất đai-giấy đỏ, giấy hồng… thì anh là kẻ bị bỏ lại phía sau.
Trải rộng 696.000ha, chiếm 17,72% diện tích tự nhiên của ĐBSCL, Đồng Tháp Mười luôn thách thức những ai bước qua bưng biền để vào túi nước khổng lồ này. Đầu tiên là kênh 79, kế đó là kênh Trung Ương nối từ Hồng Ngự vô Tân Hưng, nối tiếp những kênh đào đại thủ công cắt ngang, xẻ dọc… Từ năm 1979 đến 2009, đất lúa mới hiện ra chứ trước đó cả vùng bị che phủ bởi cỏ mồm, sậy đế cao khỏi đầu và rừng tràm. Dọc bờ kênh, dân cố cựu ở theo vùng giải phóng, dân mới vào sống nhờ cá, đốn tràm cưa củi chở qua An Giang, Đồng Tháp bán.
Trồng lúa thời thóc cao gạo kém hãnh diện như người giữ đền, bảo vệ chén Thánh nên ai nấy ráng sức trồng lúa để đừng ai phải đói cơm.
“Tìm gò cao trồng lúa chứ khoa học kỹ thuật mình yếu lắm, đất phèn nặng, nhiều người từ huyện phía nam lên trồng lúa mà không có gạo ăn”, anh Út kể lại những ngày nghe xúi dại “chiến đấu” với phèn.
Đồng Tháp Mười bao gồm Long An (299.000ha), Đồng Tháp (239.000ha), Tiền Giang (92.500ha). Người ta nói năm 1987 đã trồng được 312.587 ha lúa, năm 1996 trồng gần 700.000 ha. Từ một vùng “đất chết” ngập úng bạt ngàn lau sậy, đã làm ra lúa.
Thực ra tới năm 2010, thu nhập gia đình người trồng lúa mới tạm ổn. Mỗi năm, trồng 2 vụ lúa, năng suất vụ Đông Xuân 8 tấn/ha, hè thu 6 tấn/ha. Đâu có ai biết, làm ruộng ở Đồng Tháp Mười, ít nhất qua tay bốn chủ mới trụ lại được. Không phải ai cũng chịu đựng nổi khắc nghiệt của phèn. “Nếu không phải là “cơ sở hai”, tức có làm ăn ở đâu đó rồi, đủ sức bù đắp mới trụ lại được; nhược bằng “yếu pin” quá thì bay đi hết”, “nhân chứng” Lê Văn Út nói.
“Chỉ năm nay người ta mới mua lúa với giá cao lên, nhưng giá ST 25, OM 18, Đài Thơm 8 ở đây bao giờ cũng thấp hơn nơi khác”, anh Út – không biết bao nhiêu lần – nghe lái nói lúa vùng đất phèn xay gạo không trắng, tỷ lệ thu hồi thấp, hạt gạo lừng chứ không no đầy, mẫy hạt như nơi khác”.
Với cách mua bán đó, nhà bốn miệng ăn – làm 4-5 mẫu ruộng – nếu chỉ trồng lúa thì cũng chỉ sống được chứ khó làm giàu, anh Út nói về sinh kế người trồng lúa trên đất phèn.
Chỗ mình ngồi đây, lũ lụt năm 2000, ngập sâu 3-4 thước nước. Nước thau chua, rửa phèn. Thiếu nước là dậy phèn. Đâu có ai hình dung vùng này là túi chứa nước khổng lồ bỗng dưng cạn kiệt, nước bị nhốt trong đập lớn từ thượng nguồn, thủy sản ở hạ lưu chỉ còn cá chốt giấy, chốt cờ, cá rô phi… và cá lóc nuôi trên ruộng lúa.
Trồng lúa, nuôi cá từ khi bước chân vào Đồng Tháp Mười, trước cả những người nuôi cá tra, nhưng không theo đuổi cuộc chơi này vì không có nghề, cũng không chạy đua lấy nước mặn lên pha chè nuôi tôm nước lợ như ở Tân Lập. Không phải vì giếng nước ngầm chỗ anh ở là nước ngọt còn bên Tân Lập có nguồn nước mặn do cơn địa chấn từ ngàn xưa nhốt nước mặn trong cái vỉa huyền bí. “Làm hai vụ lúa + một vụ nuôi cá, là cá lóc đầu nhím chứ không nuôi môi trề vì bị chê đầu cá môi trề chờ vờ, hay nuôi loại nào đó; chỉ có nuôi cá thì mới trữ nước trong vùng Đồng Tháp Mười”, anh Út nghĩ vậy, nhưng đó là điều khó xảy ra khi mỗi người là cái Tôi, mạnh ai nấy làm!
Ở Tân Lập, Mộc Hóa, tỉnh Long An, nhiều đại gia về làng rút nước mặn pha chè giữa Đồng Tháp Mười nuôi tôm thẻ chân trắng, cái Tôi đang “thắng lớn” nên mọi lời cảnh báo về hiểm họa môi trường là vô nghĩa. Ngược lại, anh Út hồi hộp dõi theo từng cuộc gọi – chuông reo – giọng người lái cá hứa sẽ nhống giá nếu bạn hàng Campuchia ăn hàng. Cái Tôi của người từng gan góc vào Đồng Tháp Mười sao mong manh dễ vỡ với con số 500-1.000 đồng mỗi ký cá!
Mai mốt, kênh đào Đế chế Phù Nam sẽ khiến những cái Tôi ở hạ lưu mong manh, dễ vỡ hơn nữa khi tài nguyên nước ngọt trở thành con tin ở thượng nguồn. Bền vững ở vùng hạ lưu đòi hỏi bản lĩnh kiên cố hơn, nhưng tìm đâu ra?
Hoàng Lan (theo TGHN)
Có thể bạn quan tâm
FAANG 2.0 – bộ mặt mới trong các rủi ro địa chính trị
Khởi nghiệp trong nông nghiệp là xu hướng của 2023
Cay đắng và vinh quang của ‘trái táo tình yêu’
Nhà nước khởi tạo mô hình về vai trò định hướng thị trường của chính phủ
Lòng khoan dung vẫn vẹn nguyên giá trị
Tags:ĐBSCLkênh phù nam
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này