11:15 - 14/09/2019
PFAS, độc chất chưa được cảnh báo đúng mức
Tuần qua, Đan Mạch trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới cấm dùng các PFAS trong sản xuất bao bì thực phẩm kể từ năm 2020, vì lo sợ ảnh hưởng của chúng lên sức khoẻ con người, như ung thư, bệnh tim mạch, vô sinh, rối loạn chuyển hoá.
“Hoá chất vĩnh cửu”
Vật liệu chứa PFAS quen thuộc với con người nhất có lẽ là chiếc chảo chống dính, có mặt trong nhiều gia đình với chất liệu quen thuộc Teflon của tập đoàn DuPont (Mỹ).
Teflon được phát hiện rất tình cờ. Năm 1938, trong khi thử nghiệm với khí tetrafluoroethylene (TFE), kỹ sư người Mỹ Roy Plunkett để xảy ra một sự cố và sản phẩm ông nhận được không phải khí mà là một chất rắn trắng không dính, chịu nhiệt cao, chống chọi được nhiều hoá chất, sau đó được gọi là Teflon. Năm 1954, kỹ sư Pháp Marc Gregoire mua Teflon về với ý định phủ lên chiếc cần câu cho trơn nhẵn, nhưng vợ ông lại muốn phủ nó lên dụng cụ nhà bếp để chống dính. Marc làm thành công với chiếc chảo nhôm, và thương hiệu đồ dùng nấu bếp Tefan (Pháp) nổi tiếng ra đời từ đây, ghép hai chữ Teflon và aluminium (nhôm). Thế nhưng, cùng với thời gian khoa học lại phát hiện nhiều độc tính của PFAS, và đồ dùng chống dính dần dà trở thành nỗi ám ảnh cho sức khoẻ con người.
Thực tế PFAS, viết tắt của các chất perfluoroalkyl và polyfluoroalkyl, là một nhóm lớn gồm hàng ngàn hợp chất kỵ nước, không hoà tan trong lipid hoặc các dung môi không phân cực trong tự nhiên, cực kỳ bền do sức mạnh của liên kết carbon-fluor, vì thế không bị phá vỡ trong môi trường và cơ thể con người. Do đặc tính này mà các PFAS còn được gọi là “hoá chất vĩnh cửu” (forever chemicals).
Trong số các PFAS, PFOS (perfluorooctane sulfonate) và PFOA (perfluorooctanoic acid) được nghiên cứu nhiều nhất, và cũng gây nhiều lo ngại, vì ảnh hưởng của chúng trên sức khoẻ con người. Cơ quan Nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC) đã xếp PFOA là chất “có thể sinh ung thư”, vì có bằng chứng cho thấy nó gây ra ung thư tinh hoàn, ung thư thận. Ở những người tiếp xúc nhiều với PFAS, người ta phát hiện tình trạng tăng “cholesterol xấu” LDL và cholesterol toàn phần. Chưa kể, PFAS gây nhiều tổn thương trên gan, thận, làm giảm tác dụng của vắc xin, khiến phụ nữ sinh con nhẹ cân, làm giảm tinh trùng và ngắn dương vật ở nam giới, gây xáo trộn chu kỳ sinh sản và tăng trưởng tử cung, buồng trứng ở nữ giới.
Lo ngại về PFAS ở Việt Nam
Trong một báo cáo có tên “Thông tin về PFAS tại Việt Nam trong năm năm 2012 – 2018” do trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) chia sẻ đầu tháng này, các tác giả lo lắng về tình trạng “các hợp chất PFAS tại Việt Nam phần lớn không được kiểm soát; máu người, sữa mẹ của nhiều phụ nữ Việt Nam có chứa PFAS; nhiều khu vực nước mặt của Việt Nam và hải sản ở vùng biển Việt Nam bị nhiễm PFAS”.
Theo báo cáo, dù Việt Nam trở thành thành viên của công ước Stockholm vào năm 2004, và công ước này đã bổ sung PFOS vào danh sách các hoá chất hạn chế trên toàn cầu vào năm 2009, và sự điều chỉnh đã có hiệu lực pháp lý tại Việt Nam vào năm 2010, nhưng trong năm năm gần đây chỉ có bốn văn bản chính sách của Việt Nam được công bố về xử lý PFOS.
Nghiên cứu đăng trên tạp chí Environmental Science & Technology vào năm 2008, cho thấy phụ nữ tại Hà Nội và TP.HCM bị nhiễm đáng kể các hợp chất PFAS. Nhìn chung, nồng độ PFOS trung bình trong sữa mẹ Việt Nam cao gấp 3,75 lần so với giới hạn khuyến cáo đối với nước uống là 20ppt của bang Vermont, Hoa Kỳ. Nồng độ PFOS cao nhất đo được cao hơn khoảng 20 lần so với giới hạn khuyến cáo cho nước uống của bang Vermont.
Tình trạng nước nhiễm PFAS ở Việt Nam rất phổ biến.Một nghiên cứu vào năm 2015 đã ghi nhận tình trạng ô nhiễm PFAS ở nước mặt, nước sông và nước ngầm. Các hợp chất PFAS xuất hiện phổ biến nhất trong nước mặt là PFOA (98%), PFNA (84%) và PFOS (59%). Nồng độ ô nhiễm cao nhất được ghi nhận ở các mẫu tại các khu vực đông dân cư và khu công nghiệp hoá chất, có thể nguyên nhân từ nguồn nước thải. Nhóm nghiên cứu lưu ý sự xuất hiện thường xuyên của PFOS và PFOA, cho thấy các hoá chất này có mặt ở khắp nơi trong môi trường nước đô thị tại Việt Nam.
Đáng lưu ý, PFAS cũng hiện diện trong hải sản. Một nhóm khoa học gia quốc tế đã đo hàm lượng PFAS trong các mẫu cá chép, cá lóc và cá da trơn của Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam, Malaysia và Thái Lan. Ở Việt Nam, mẫu cá thu thập tại Bắc Ninh, Hưng Yên và Long Xuyên, theo đó nồng độ PFOS và PFNA trong các mẫu cá thu được lên tới 10ng/g trọng lượng ướt. Các tác giả lưu ý nồng độ PFOS và PFNA trong gan cá lóc ở Việt Nam lớn hơn ở Ấn Độ và Malaysia, cho thấy mức độ ô nhiễm PFAS ở Việt Nam cao hơn so với các quốc gia châu Á nhiệt đới đang phát triển khác. Nghiên cứu này công bố trên tạp chí Archives of Environmental Contamination and Toxicology tháng 11/2011.
Cứu mình trước tiên
Nói về việc cấm sử dụng PFAS từ năm 2020, bộ trưởng Thương mại và hợp tác phát triển Đan Mạch Mogens Jense cho biết: “Tôi không muốn chấp nhận những rủi ro sức khoẻ từ hoá chất PFAS, khi nó di chuyển từ bao bì vào thực phẩm. Chúng gây hại cho sức khoẻ con người đến mức chúng tôi không thể ngồi chờ Liên minh châu Âu (EU) hành động”. Bình luận quyết định này, TS Arlene Blum của viện Chính sách khoa học xanh – đại học California (Mỹ), nói: “Chúng tôi hoan nghênh Đan Mạch đi đầu trong lĩnh vực thực phẩm lành mạnh hơn, và hy vọng điều này cổ vũ hành động tương tự trên khắp EU, Mỹ và toàn thế giới”.
Dương Cầm (theo TGHN)
Có thể bạn quan tâm
Hơn 80% người không biết mình mang gien ung thư
Bộ trưởng Y tế trả lời ĐBQH về vụ VN Pharma
Vui sống: Tư vấn về vá màng nhĩ nội soi
Nửa số bệnh nhân tiểu đường không có insulin dùng vào năm 2030
Bác sĩ Damadian vô duyên với giải Nobel
Tags:chảo chống dínhPFAS
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này