11:25 - 11/07/2020
Hornykiewicz, ‘thần y’ của bệnh nhân Parkinson
Có hơn 10 triệu người mắc bệnh Parkinson trên thế giới. Trong khi việc chữa khỏi căn bệnh này vẫn còn bỏ ngỏ, thì bác sĩ Oleh Hornykiewicz đã mang lại hy vọng cho bệnh nhân bằng một giải pháp điều trị khá hữu hiệu.
Ông qua đời vào cuối tháng 5 vừa rồi ở tuổi 93.
Bệnh Parkinson còn gọi là “liệt rung”, vì khi bệnh tiến triển rõ ràng bệnh nhân sẽ cử động chậm chạp, run khi nghỉ ngơi – bắt đầu ở một bên cơ thể và run nhiều hơn khi xúc động, tập trung. Ngoài ra, bệnh nhân còn ít cười nói, khó diễn tả cảm xúc trên nét mặt, hay kéo lê chân trên đất, đi khom người nhẹ về phía trước và dễ mất thăng bằng.
Parkinson được xem là bệnh của người cao tuổi, bởi đa số bệnh nhân trên 60 tuổi. Vì thế, với xu hướng lão hoá dân số ngày nay, số bệnh nhân Parkinson dự báo tăng rất nhiều vào những năm tới, chứ không dừng lại hơn 10 triệu người như hiện nay.
Oleh Hornykiewicz sinh ngày 17/11/1926 tại làng Sychow, gần Lviv (Ba Lan – ngày nay thuộc Ukraine). Gia đình ông cả bốn đời đều có người làm tu sĩ Chính thống giáo. Khi quân đội Liên Xô có mặt ở vùng này vào năm 1939, gia đình ông chuyển đến Áo, quê ngoại của ông, sinh sống.
Không biết tiếng Đức, nhưng Hornykiewicz lại học ngôn ngữ này qua việc đọc cuốn tự truyện nổi tiếng Mein Kampf (Cuộc tranh đấu của tôi) của trùm phát xít Adolf Hitler có nhan nhản ở Vienna thời đó. Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, cũng là lúc Hornykiewicz mắc bệnh lao, vì điều này ông quyết định trở thành bác sĩ như anh trai của mình.
Tốt nghiệp y khoa đại học Vienna vào năm 1951, ông đi theo con đường nghiên cứu dược học. Năm năm sau, ông được Hội đồng Anh tặng học bổng nghiên cứu tại đại học Oxford (Anh). Năm 1967 ông được viện Nghiên cứu tâm thần Clarke ở Toronto (Canada) bổ nhiệm đứng đầu khoa dược học tâm thần, và chính ở đây ông đã thành lập phòng thí nghiệm não người, mười năm sau đó. Ông làm việc ở đây cho đến ngày về hưu vào năm 1992.
Ngày nay, y học vẫn chưa hiểu tường tận về bệnh Parkinson, nhưng vào thời của Hornykiewicz hiểu biết còn rất ít. Bệnh có tên này vì được bác sĩ người Anh James Parkinson mô tả lần đầu vào năm 1817.
Đến nay người ta vẫn không biết nguyên nhân gây bệnh, nhưng Hornykiewicz là người đầu tiên gợi ý bệnh khởi phát do thiếu chất dopamine trong não. Ông đặt giả thiết này, vì trước đó bác sĩ Arvid Carlsson và đồng nghiệp đã chứng minh dopamine có vai trò quan trọng trong chức năng vận động. Năm 1960, khi mổ tử thi những bệnh nhân Parkinson tử vong, Hornykiewicz và người phụ tá phát hiện nồng độ dopamine trong bộ não của họ rất thấp.
Thế là ông thuyết phục đồng nghiệp Walther Birkmayer, một chuyên gia thần kinh, tiêm cho bệnh nhân L-dopa, tiền chất của dopamine. Khi vào người, L-dopa đi vào não và chuyển thành dopamine. Kết quả bệnh nhân cải thiện triệu chứng ngoạn mục, họ không còn ở yên một chỗ mà đi lại dễ dàng, như phép lạ trong Kinh Thánh.
Năm 1961, Hornykiewicz báo cáo những kết quả ban đầu của nghiên cứu tại hội nghị Hội y học Vienna. Người ta gọi đó là “Phép lạ L-dopa” (L-dopa Miracle) và điều này đã tạo cảm hứng cho bác sĩ kiêm văn sĩ nổi tiếng Oliver Sacks (1) cho ra mắt tác phẩm Awakenings.
Giáo sư Stephen J. Kish, trưởng phòng thí nghiệm não người của đại học Toronto, đã gọi L-dopa (biệt dược Levodopa) là “liệu pháp trụ cột trong bệnh Parkinson, không có loại thuốc nào hiệu quả hơn nó”. Ông nói thêm: “Hornykiewicz nhắc chúng ta rằng trước khi sử dụng L-dopa, bệnh nhân Parkinson phải nằm liệt giường, chen chúc trong những phòng bệnh mạn tính của bệnh viện, và bác sĩ phải bó tay không thể giải thích. Nhưng khám phá của Hornykiewicz đã thay đổi mọi thứ, đó là phép lạ”.
Tính ra có vô số bệnh nhân Parkinson hưởng lợi từ những phát hiện của bác sĩ Oleh Hornykiewicz. Công lao này xứng đáng được ghi nhận bằng một giải thưởng danh giá. Năm 2000, người ta đề cử ông nhận giải Nobel y học, nhưng cuối cùng nó được trao cho bác sĩ Arvid Carlsson (Thuỵ Điển) cùng hai người khác, vì khám phá ra dopamine, “cho phép phát triển những loại thuốc chữa trị Parkinson”. Hơn 200 nhà khoa học khắp thế giới đã ký một thỉnh nguyện gửi hội đồng Nobel đề nghị xem xét lại quyết định, lẽ ra phải trao cho Hornykiewicz, nhưng mọi nỗ lực bất thành.
Không nhận được giải Nobel, nhưng bác sĩ Hornykiewicz cũng được trao nhiều phần thưởng danh giá khác như giải Wolf y học năm 1979 và giải Ludwig Wittgenstein của hội đồng nghiên cứu Áo năm 1993.
Hornykiewicz sống những ngày cuối đời cùng bốn người con, sáu đứa cháu và một đứa chắt. Vợ ông qua đời trước đó. Giáo sư Kish nói: “Ông ấy là một chuyên gia dược lý, sinh hoá và thần kinh, với mong muốn biết được làm thế nào bộ não hoạt động và dopamine ảnh hưởng như thế nào. Nhưng ông ấy cũng muốn được mọi người xem là một triết gia”.
Thật vậy, dù bị hội đồng Nobel khước từ trao giải, nhưng giáo sư Hornykiewicz vẫn nhìn nhận những gì mình làm được với những suy nghĩ mang tính triết học. Năm 2004 ông viết: “Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy mình hoàn thành mọi chuyện như mong muốn. Trong công việc tôi nhận được sự ủng hộ và ghi nhận. Tôi đã chấp nhận với lòng biết ơn như một lời nhắc nhở mình phải làm nhiều hơn và tốt hơn”.
Bệnh Parkinson không chừa ai
Không được chú ý như các bệnh ung thư, tim mạch, đái tháo đường, nhưng ít ai biết nhiều người nổi tiếng đã mắc bệnh Parkinson. Chẳng hạn huyền thoại quyền Anh Muhammad Ali, Tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush, ngôi sao hàng đầu Hollywood Michael J. Fox, Đức Giáo Hoàng John Paul II, hay cua rơ xe đạp người Mỹ David Phinney.
Bình Yên (theo TGHN)
————
(1) Bác sĩ người Anh (1933 – 2005) nổi tiếng không chỉ trong lĩnh vực thần kinh, mà còn trong văn học /với nhiều tác phẩm xuất sắc, ông được ví như “thi sĩ của ngành y”. Awakenings được dựng thành phim vào năm 1990 do Robin Williams thủ vai chính. Phim nhận ba đề cử Oscar trong đó có mục “Phim hay nhất”.
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này