12:28 - 17/01/2020
Du lịch ĐBSCL: Tôi đến, tôi sống và tôi cảm
Khái niệm “nền kinh tế trải nghiệm” được đề xướng bởi hai nhà kinh tế học Joseph Pine và Jim Gilmore vÀo năm 1999. Theo hai ông, kinh tế thế giới cơ bản đã trải qua các thời kỳ, kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp, kinh tế dịch vụ, và hiện nay đang bước vào thời kỳ kinh tế trải nghiệm.
Ngày nay “trải nghiệm” mới chính là nhu cầu thật sự mà người tiêu dùng mong muốn nhận được từ các doanh nghiệp và thương hiệu. Hành vi mua hàng và nguồn gốc chủ chốt tạo dựng lòng trung thành của bất cứ khách hàng nào, giờ đây hoàn toàn chịu ảnh hưởng bởi những trải nghiệm mà thương hiệu đó tạo ra.
Ở Việt Nam, vài năm gần đây nhu cầu trải nghiệm trong du lịch ngày càng rõ nét, thể hiện qua việc các tour du lịch trực tiếp hoà mình vào đời sống của người dân địa phương như: bắt cá, làm bánh, trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch hoa màu, nấu ăn, ngủ nghỉ tại nhà dân… qua đó hiểu sâu hơn về lối sống, giá trị văn hoá của các dân tộc, các vùng miền rất được ưa chuộng.
Du lịch đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đúng như nhiều chuyên gia nhận định, vẫn chưa phát triển đúng tiềm năng, sản phẩm du lịch còn trùng lặp, tính hấp dẫn du khách chưa cao, thiếu vắng các sản phẩm du lịch độc đáo. Tuy nhiên, nếu nhìn theo hướng tích cực hơn, việc chậm chân này dường như là một may mắn để các địa phương có cơ hội phục vụ cho các hoạt động du lịch trải nghiệm, nhờ vào các tài nguyên nông nghiệp và văn hoá bản địa còn “nguyên chất” rất riêng của mình: bình dị, thân thiện và hào sảng, mà phần còn lại của cả nước không thể nào có được. Để làm được điều đó, các nhà làm du lịch (quản lý và doanh nghiệp) cần thay đổi tư duy “xây dựng sản phẩm du lịch” mong đợi mang lại sự tiện nghi và chất lượng phục vụ cao nhất, sang cách tiếp cận “thiết kế trải nghiệm du lịch”, giúp du khách gần hơn với cộng đồng và tạo ra cung bậc cảm xúc trải nghiệm khác nhau. Việc thiết kế trải nghiệm của du khách cần lưu ý những đặc điểm đáng chú ý sau:
Tính tương tác: du khách ngày nay trước khi đến một điểm đến, họ được cung cấp rất nhiều thông tin và có thể nhìn thấy trước các hoạt động trải nghiệm từ mạng xã hội, do đó họ kỳ vọng xa hơn về một sự hoà mình vào không gian thực tế. Nên việc tương tác với dân cư và đời sống thực tại địa phương, là một phần không thể thiếu trong trải nghiệm của du khách. Một cộng đồng dân cư thân thiện và sẵn sàng tham gia vào hoạt động du lịch, sẽ góp phần làm cho tính tương tác này trở nên chân thực hơn.
Tính nguyên gốc: bên cạnh tính chân thực trong trải nghiệm, du khách còn muốn tìm kiếm sự mới lạ ở những nền văn hoá khác nhau. Tuy nhiên, không nên vì thế mà nhầm lẫn sự mới lạ với sự hiện đại. Ngược lại, chính sự “truyền thống”, “nguyên gốc” và “đúng chất” (authenticity) của tài nguyên du lịch và văn hoá bản địa, mới là yếu tố tạo nên sự khác biệt khó bị cạnh tranh giữa các điểm đến. Chỉ đơn cử như việc trải nghiệm món ăn, du khách không chỉ quan tâm món ăn ngon hay dở, mà còn quan tâm đến nguồn gốc, cách chế biến sao cho đúng kiểu bản xứ, cách ăn đúng điệu và được ăn chung với người địa phương.
Tính biểu tượng: du khách ngày nay không những kỳ vọng về những trải nghiệm và cảm xúc mình có được trong lúc đang đi du lịch, mà còn mong đợi mang lại những giá trị biểu tượng gắn với việc “tìm kiếm và thể hiện giá trị bản thân” sau đó. Có thể nhìn lại việc khám phá công viên bỏ hoang tại Huế, ngoài việc mang lại cảm giác ma mị, nó còn là cách du khách muốn chứng minh sự gan dạ của mình với bạn bè. Các trải nghiệm càng có nhiều các giá trị biểu tượng này, thì càng có tính lan toả cao.
Tính đồng sáng tạo: việc tìm kiếm ba đặc điểm trên của trải nghiệm khiến du khách ngày nay mong muốn được chủ động hơn trong vai trò người đồng sáng tạo. Điểm đến du lịch do đó là sân khấu nơi các trải nghiệm được diễn ra, còn các nhà cung cấp dịch vụ và cộng đồng địa phương trở thành những đối tác giúp du khách hoàn thành thuận lợi vai diễn và thăng hoa cảm xúc trên sân khấu đó.
Vậy nên, trước tiên các địa phương tại ĐBSCL cần thiết kế lại địa phương mình từ một “điểm đến của ăn và xem” thành “sân khấu của các loại hình trải nghiệm”, thống kê lại các sản vật, tập tục và lễ hội truyền thống, để lấy nó làm chất liệu viết nên các kịch bản trải nghiệm, sẵn sàng chờ du khách đến nhận lấy phần vai diễn của mình: “Hành trình hạt gạo” đi từ trải nghiệm cỡi trâu, cấy lúa cho đến việc làm ra tô bánh canh, cái bánh xèo từ bột gạo; “Hành trình hồn sen” cho du khách thả hồn vào không gian sen, được cảm giá trị của cây sen qua từng khía cạnh ẩm thực, văn hoá, nghệ thuật, tôn giáo; “Lênh đênh Mekong” đưa du khách hoà mình vào đời sống sông nước không chạm chân vào đất liền với chợ nổi, với lồng bè nuôi cá; “Lạc lối U Minh” khám phá sinh thái rừng tràm và thực nghiệm những tình tiết cường điệu quá đáng trong các câu chuyện Bác Ba Phi…
Sau khi có sân khấu và kịch bản hay, việc phân vai và đào tạo “diễn viên quần chúng” (tức dân cư địa phương) cũng không kém phần quan trọng. Du lịch cộng đồng nói chung và du lịch trải nghiệm nói riêng, không thể thành công nếu không có sự tham gia của toàn thể cộng đồng. Sự phân vai cho cộng đồng không những giúp cho sân khấu trải nghiệm được sinh động hơn, mà còn là hình thức chia sẻ nguồn phúc lợi bình đẳng từ phát triển du lịch cũng gắn kết trách nhiệm của cộng đồng vào sự phát triển chung, hướng tới sự bền vững.
ĐBSCL vốn đã mang trong nó nhiều giá trị trải nghiệm. Du lịch ĐBSCL không cần phải là bản sao của bất cứ nơi nào cả. Hãy là chính mình, cùng liên kết để phát huy hết những gì tinh tuý nhất trong tình đất tình người trên một sân khấu chung, rồi thông qua từng người dân bao đời chân chất, hồn hậu mang nó đến cho du khách.
Lương Hà (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này