09:40 - 26/12/2019
Tính toán miếng ăn cho đúng, cho đủ
Còn tròn tuần nữa chúng ta tạm biệt năm cũ để chào đón năm mới 2020. Nhìn lại một năm qua, sản xuất nông lâm nghiệp của Việt Nam có quá nhiều biến động, từ thị trường xuất khẩu lẫn tiêu thụ nội địa.
Nông nghiệp Việt Nam, dù đang có chuyển biến nhanh hơn về tái cơ cấu chuyển sang sản xuất xanh, sạch, chế biến tinh; nhưng xem ra vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thay đổi nhanh từ thị trường. Chăn nuôi là ngành điển hình có hạn chế như thế.
Năm 2019 ghi nhận giai đoạn khủng hoảng trong lịch sử ngành chăn nuôi heo của Việt Nam. Chỉ cần trải qua cơn dịch bệnh tả heo châu Phi, ngành nuôi heo gần như mất trắng: tổng đàn heo mất một nửa rơi vào đa số nông dân nuôi nhỏ lẻ, hàng loạt doanh nghiệp (DN) thức ăn đóng cửa nhà máy, công ty bán thuốc thú y phá sản, cơ sở cơ khí, xây dựng chuồng trại sống vật vờ, quan trọng nhất là thị trường thịt heo mất cân đối cung cầu, giá tăng cao, người dùng phải chi thêm gấp đôi…
Khủng hoảng kéo dài bao lâu?
Khủng hoảng thịt heo sẽ vẫn chưa dừng lại, vì theo nhiều dự báo, phải mất ba năm, năm năm, thậm chí mười năm nữa chúng ta chưa thể gầy dựng lại đàn heo như ban đầu, vì phải phụ thuộc nhiều yếu tố, như có làm tốt môi trường nuôi không, sớm bổ sung nguồn giống bố mẹ, cải tạo lại hệ thống chuồng trại, thay đổi quy trình nuôi theo hướng an toàn sinh học… Những hạn chế này rất khó khắc phục được một sớm một chiều, các chuyên gia cảnh báo nếu nóng vội tái đàn để có nguồn thịt, thì càng nuôi dịch bệnh càng lây lan. Nên nhớ, virus tả heo châu Phi giờ đã có mặt ở khắp nơi trong môi trường, từ nguồn nước ngầm, đất (khu chôn lấp heo chết ngay trang trại), đến nguồn phân, các vật dụng quanh trại, thức ăn thừa, xe tải vận chuyển heo, thức ăn, thậm chí cả trong những tờ tiền luân chuyển khi mua bán heo… Do đó, biện pháp duy nhất có thể ứng phó lúc này là nên chuẩn bị sống chung với khủng hoảng nguồn cung thịt heo trong nhiều năm nữa. Vậy bằng cách nào?
Trung Quốc bùng nổ dịch trước Việt Nam chừng nửa năm (đầu tháng 8/2018 so với tháng 2/2019), ước tính tỷ lệ heo nhiễm bệnh ở Trung Quốc chừng 50%, tức hơn 220 triệu con bị huỷ và thị trường hơn tỷ dân này cũng đã, đang rơi vào khủng hoảng nguồn cung trầm trọng. Có thời điểm giá heo hơi lên 150.000 – 170.000 đồng/kg. Để đối phó, bên cạnh việc ráo riết tìm nguồn nhập khẩu thay thế, Trung Quốc thực hiện kế hoạch xuất kho dự trữ chiến lược quốc gia. Tuần trước (19/12), bộ Thương mại nước này công bố xuất kho thêm 40.000 tấn thịt heo để đáp ứng nhu cầu lễ tết. Trước đó 5 tháng, Trung Quốc cũng xuất kho hơn 20.000 tấn thịt heo, khoảng 2.400 tấn thịt bò và 2.000 tấn thịt cừu. Biện pháp này kết hợp với nhập khẩu thịt, đã từng bước cải thiện giá thịt heo tại thị trường này.
Thiếu khoảng 600.000 tấn
Việt Nam thì sao? Chúng ta dường như chưa đánh giá hết tình hình nghiêm trọng của đợt khủng hoảng nguồn cung thịt heo sau đợt dịch tả, để có chiến lược chuẩn bị nguồn thực phẩm thay thế. Cách nay hơn tháng, sau vài cuộc họp có sự tham gia của thành viên Chính phủ, hai bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT), bộ Công thương mới công bố thiếu khoảng 600.000 tấn thịt heo, nêu vấn đề cần nhập khẩu thay thế. Nhưng, thời gian đề cập giải pháp nhập khẩu mà hai bộ đưa ra quá muộn (vì trước đó cả năm, DN Trung Quốc đã được chính phủ khuyến khích, họ gom tiền mua sạch thịt heo của thế giới rồi, giá tăng cao chứ không còn đâu cho DN Việt Nam mua nữa), biện pháp thực hiện lại hời hợt, không quyết liệt. Còn khoảng tháng nữa là tới tết Nguyên đán, DN vẫn chưa nhập được thịt heo như hai bộ đề ra, bộ Công thương và bộ NN&PTNT vẫn còn tranh cãi, cơ quan nào là đầu mối chính để dẫn dắt DN nhập thịt heo.
Tính tới an ninh thực phẩm
Chấp nhận đem tiền đi mua cũng chậm, và không mua được, giờ người dùng chỉ biết nhìn vào nội lực ngành chăn nuôi đang có, nhưng đàn heo Việt Nam hiện đã giảm quá nhiều, nguồn thịt dự trữ cũng không có. Nhìn lại lịch sử, Việt Nam đã và đang khá thành công với chiến lược dự trữ lương thực, nhất là lúa gạo. Trên khắp đất nước hình chữ S, nơi nào chúng ta cũng có kho dự trữ gạo, được duy trì từ thời bao cấp để phục vụ cho một đất nước còn nghèo đói, chú trọng nhiều hơn đến năng lượng, chứ không phải protein đạm động vật, thuỷ hải sản… Đây là chiến lược cần, nhưng chưa đủ trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đã khấm khá hơn, thu nhập người dân cao hơn trước, nhu cầu lương thực, nhất là gạo giảm rõ rệt để chuyển qua ăn ngon, ăn sạch, ăn thực phẩm chứa đạm, rau củ quả nhiều hơn. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà bao năm nay, chúng ta không có chiến lược xây kho dự trữ thực phẩm.
Còn nhớ hồi giữa năm, từng có cuộc họp của hai thứ trưởng bộ NN&PTNT và bộ Công thương bàn cách dự trữ thịt heo, cấp đông thịt khi dịch tả châu Phi đang bùng phát. Đây là giải pháp tốt, vừa tận dụng được lượng heo xuất chuồng giá rẻ, đưa vào cấp đông dự trữ, có thêm nguồn thực phẩm cho sau này, vừa giảm tình trạng người nuôi bán heo chạy, dịch bệnh lây lan. Nhưng số đông người trong ngành thừa hiểu hai bộ bàn là bàn vậy thôi, chứ thực tế cả nước Việt Nam lấy đâu ra nhà máy đạt chuẩn để giết mổ, cấp đông thịt heo. Ngay cả hệ thống kho lạnh cho dự trữ cũng không có. Nhà nước đã không đầu tư, nhưng cũng không đưa ra chính sách, chủ trương khuyến khích DN làm, thành ra đến thời điểm này, hệ thống nhà máy giết mổ gia súc hiện đại, kèm theo hệ thống kho lạnh dự trữ thịt của Việt Nam vẫn chỉ là con số không.
Thịt heo là mặt hàng thiết yếu chiếm tới 70% nhu cầu trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình, bộ NN&PTNT luôn cho như vậy, nhưng tiếc rằng, cách ứng phó với khủng khoảng thì chưa có. Nói chưa đi đôi với làm.
Bảo Ngọc (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này