12:02 - 07/10/2016
Kinh tế Trung Quốc và nguy cơ mang tính hệ thống
Việc xử lý các doanh nghiệp “xác sống” và doanh nghiệp nợ cao chưa được triển khai thực chất thì doanh nghiệp nhà nước nợ lớn đã đầu tư quy mô lớn vào thị trường đất đai, mua bán và sát nhập ở nước ngoài và đầu tư tài chính.
Sau 30 năm tăng trưởng nóng ở mức hai chữ số, Trung Quốc vượt lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, tuy nhiên hiện nay nền kinh tế này đang liên tiếp giảm tốc bởi cùng lúc phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức như thiếu động lực tăng trưởng, dư thừa công suất, nợ cao, các chính sách nới lỏng tiền tệ không phát huy vai trò như mong đợi…
Nguy cơ từ những “xác sống”
Trước kia đa phần là Trung Quốc chịu ảnh hưởng từ những nguy cơ toàn cầu, song từ sau đợt cải cách tỉ giá hồi năm ngoái, những biến động tỉ giá và dao động thị trường vốn trong nước đã có tác động rõ rệt đến kinh tế toàn cầu.
Điều này cho thấy nếu kinh tế Trung Quốc tiếp tục lao dốc sẽ tác động trực tiếp tới kinh tế thế giới, nhất là khi tăng trưởng chưa có dấu hiệu phục hồi rõ rệt.
Trong buổi tiếp các doanh nhân tại Diễn đàn Davos mùa Hè năm nay, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã khẳng định, hai thách thức lớn nhất mà nước này đang phải đối mặt, đó là kinh tế thế giới phục hồi chậm, khiến kinh tế Trung Quốc -nền kinh tế đã hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới- đứng trước nhiều nhân tố không xác định, không ổn định.
Hơn thế, những mâu thuẫn tích tụ lâu năm và phương thức phát triển đơn nhất, truyền thống, cộng thêm những trở ngại mang tính cơ chế khiến Trung Quốc gặp khó khăn khi tiến hành cải cách, chuyển đổi.
Trung Quốc phải nỗ lực thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh tế thông qua cải cách sáng tạo, hướng đến phát triển lành mạnh, bền vững, và điều này cần có sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài.
Trung Quốc cùng lúc tiến hành cải cách và mở cửa, mà trên nhiều phương diện khi mở cửa mới buộc phải cải cách. Sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài sẽ đem đến kỹ thuật tiên tiến cũng như kinh nghiệm quản lý, như thế sẽ giúp nhiều cho việc nâng cấp các doanh nghiệp và ngành nghề ở Trung Quốc.
Ông Lưu Nguyên Xuân, Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển và chiến lược quốc gia, Đại học Nhân dân Trung Quốc nhận định, do tăng trưởng đầu tư và tiêu dùng sụt giảm, tăng trưởng GDP của cả năm 2016 thực tế chỉ đạt 6,6%.
Trong khi đó sức ép giảm tốc tăng trưởng ngày càng lớn. Điều này bộc lộ ở chỗ, cho đến nay “giảm năng lực công suất” vẫn đang ở giai đoạn lên kế hoạch, song giá cả các hàng hoá dư thừa đã có dao động lớn.
Nhà ở tại các thành phố cấp tỉnh lỵ còn chưa bắt đầu chiến dịch giải quyết hàng tồn nhưng giá nhà ở tại các thành phố lớn đồng loạt tăng giá.
Việc xử lý các doanh nghiệp “xác sống” và doanh nghiệp nợ cao chưa được triển khai thực chất thì doanh nghiệp nhà nước nợ lớn đã đầu tư quy mô lớn vào thị trường đất đai, mua bán và sát nhập ở nước ngoài và đầu tư tài chính.
Các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp mới vừa được dỡ bỏ, song tỉ lệ nợ vĩ mô tăng cao, một số chỉ tiêu vượt ngưỡng; giảm giá thành được triển khai đồng loạt thì gánh nặng thuế tăng lên, khiến lợi nhuận của doanh nghiệp bị thu hẹp; đầu tư bất động sản tăng trở lại ngoài dự kiến, nhiều dự án mới được khởi công, nhưng tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân liên tục giảm.
Năng suất lao động và lợi nhuận doanh nghiệp giảm sút; đầu tư ra nước ngoài dồn dập tăng mạnh, song xuất khẩu vẫn không có dấu hiệu tăng trở lại; các chỉ tiêu kỹ thuật không ngừng tạo đột phá, động lực tăng trưởng mới bắt đầu hình thành nhưng năng suất lao động vẫn sụt giảm; các ngành nghề truyền thống như công nghiệp có dấu hiệu ổn định trở lại thì ngành dịch vụ và ngành nghề mới nổi lại ở vào tình trạng khó khăn; tăng trưởng đầu tư theo chính sách tăng nhưng tiêu dùng giảm mạnh.
4 vấn đề của nền kinh tế Trung Quốc
Thực tế cho thấy vận hành kinh tế vĩ mô ở Trung Quốc vẫn đứng trước nhiều vấn đề.
Một là, chưa tìm ra hết các điểm mấu chốt trong cải cách kết cấu nguồn cung.
Hai là, chính sách ổn định tăng trưởng không giúp giải quyết vấn đề ở tầng nấc sâu của kinh tế vĩ mô, ngược lại còn làm tăng sự chênh lệch, hiệu quả phân phối tài nguyên kém đi, lòng tin của doanh nhân không được cải thiện.
Ba là, cơ chế phản hồi khi kinh tế sụt giảm đã bắt đầu có những thay đổi, sức ép giảm tốc nội tại của kinh tế gia tang.
Bốn là, sự phân hoá kinh tế thực thể cho thấy kinh tế vĩ mô chưa hình thành nền tảng ổn định, bền vững và phục hồi, trong bối cảnh sự ổn định ngắn hạn của kinh tế vĩ mô dựa trên nới lỏng chính sách tài chính và sự phục hồi của bất động sản sau thời kỳ bong bóng.
Đồng ý kiến với nhiều chuyên gia trong ngành, ông Triệu Chấn Hoa, giáo sư Trường Đảng Trung Quốc phân tích, khi tổng lượng kinh tế lớn, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm; tốc độ tăng trưởng cao trước đây là không bền vững, muốn bền vững không chỉ dựa vào GDP mà còn phải tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Hiện Trung Quốc đang ở giai đoạn chuyển đổi ngành nghề và động lực từ cũ sang mới. Ngành nghề truyền thống mất đi thị trường, song động lực mới chưa theo kịp.
Hơn thế khi thực hiện cải cách mang tính kết cấu nguồn cung phải “xoá bỏ năng lực sản xuất, xoá bỏ hàng tồn, xoá bỏ công cụ hỗ trợ, giảm giá thành, bổ sung thiếu hụt” ắt sẽ kéo theo tốc độ tăng trưởng sụt giảm.
Ngoài ra, nếu để xảy ra khủng hoảng mang tính hệ thống, có nghĩa là cùng lúc bùng nổ ở tổ chức tư nhân, chính phủ (trung ương và địa phương) đến doanh nghiệp ngoại thương, thanh khoản và đầu tư sẽ ảnh hưởng đến tiềm năng tăng trưởng trung, dài hạn của nền kinh tế.
Hiện tổ chức tư nhân phải đứng trước hai nguy cơ lớn, đó là nợ cao của doanh nghiệp phi tài chính, tức doanh nghiệp đã được hưởng nhiều đòn bảy hỗ trợ.
Tăng đòn bẩy hỗ trợ với mục đích được hưởng lợi lớn, có điều đằng sau đó cũng tiềm ẩn rủi ro cao, vì thế đòn bảy hỗ trợ là cơ chế rủi ro hoặc lợi ích tăng gấp bội.
Nguy cơ từ khối nợ quốc gia
Theo thống kê mới đây nhất, nợ quốc gia của Trung Quốc bằng 225% GDP, trong đó, nợ cá nhân và nợ chính phủ đều chiếm 40%, còn nợ doanh nghiệp chiếm 145%, mức cao nhất trên thế giới.
Các doanh nghiệp được hưởng lợi từ đòn bảy hỗ trợ chính là để mở rộng sản xuất, có điều từ sau khủng hoảng toàn cầu, tăng trưởng kinh tế thế giới và Trung Quốc đều giảm sút, nhu cầu trong nước và quốc tế thu hẹp.
Trong tình hình đó nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã dư thừa năng lực sản xuất, nhất là các ngành chế tạo gang thép, xi măng, than hay năng lượng mặt trời, điện gió, đóng thuyền và một phần cơ sở hạ tầng. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ thu hồi vốn.
Theo tính toán, trước khủng hoảng, tỷ lệ thu hồi vốn của doanh nghiệp là trên 10%, nhưng hiện nay tỷ lệ này không đạt 5%. Nguyên nhân chủ yếu chính là dư thừa năng lực sản xuất.
Ngoài ra tồn kho bất động sản cũng quá lớn và cần một thời gian dài để giải quyết. Đã có nghiên cứu cho thấy, Trung Quốc cần 4-5 năm mới cơ bản giải quyết được, như thế, các doanh nghiệp sẽ phải đứng trước sức ép lớn trong việc giải quyết hàng tồn.
Với mức giá cả hiện nay, sẽ có một bộ phận doanh nghiệp không đủ trường vốn để trả ngân hàng, dẫn đến phá sản, kéo theo sự bùng nổ khủng hoảng ngành ngân hàng.
Trong khi đó, chính phủ phải đối mặt với nguy cơ nợ cao và doanh nghiệp ngoại thương, thanh khoản và đầu tư lại đứng trước nguy cơ dòng vốn đổ ra ngoài ngày càng lớn. Từ đó sẽ lan đến tổ chức tư nhân.
Một khi ngân hàng gặp phải vấn đề lớn, chắc chắn chính phủ sẽ ra tay cứu giúp và chỉ có chính phủ trung ương mới có đủ khả năng cứu ngân hàng, như thế cũng sẽ khiến nợ chính phủ gia tăng.
Đây chính là khả năng bùng phát khủng hoảng mang tính hệ thống của Trung Quốc.
Theo TTXVN
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này