10:16 - 23/06/2023
Paris kỳ ngộ
Đó là cuộc hội ngộ với hai nữ “cường nhân” mà tôi yêu quý từ hai phương trời xa lạ. Chúng tôi gặp nhau tại diễn đàn “Phụ nữ Việt Nam, sáng tạo và dấn thân” ở Paris đầu tháng 6…
Tên của họ đẹp, Thục Quyên và Thúy Hà. Hai bài tham luận, tự thuật của họ hấp dẫn tôi nhiều. Nhưng tôi chỉ quyết định phải viết về họ khi chính tai tôi nghe Thúy Hà, hơi nghẹn ngào, mở đầu bài phát biểu tại diễn đàn trên:
“Tôi quyết định bỏ hẳn một trang đầu tham luận tôi đã chuẩn bị sau khi nghe chị Nguyễn Thục Quyên đọc bài phát biểu của chị. Vì tôi thấy sao mà một đoạn đời của chị và tôi giống nhau đến thế, giống đến giật mình, mà lại là từ hai phía của cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhà chị Thục Quyên cũng như nhà tôi, đều có năm đứa con, lớn lên trong nghèo khó và nheo nhóc. Cái khác duy nhất mà cũng lớn lao nhất là cha của Thục Quyên và cha tôi là ở hai bên chiến tuyến. Ba chị Thục Quyên là viên chức Việt Nam Cộng Hòa, còn bố tôi là lính Việt Cộng. Sau 1975, ba chị Thục Quyên đi cải tạo, cả gia đình sống trong nghèo đói, không cơm ăn, không quần áo mặc, nhà không có điện hàng mười mấy năm trời. Còn bố tôi trở về cày ruộng ở một ngôi làng heo hút của Hà Tĩnh, cuộc sống không khá hơn bao nhiêu…
Hai mươi mốt tuổi Thục Quyên được xuất cảnh định cư ở Mỹ, từ hoàn cảnh nhà nghèo và không biết tiếng Anh, bắt đầu một cuộc phấn đấu mửa mật từng ngày để chỉ trong 10 năm, lấy bằng tiến sĩ. Còn tôi, sau đại học thì đi làm ở một nhà xuất bản, công việc nhàm chán cũng trong suốt 10 năm, đến mức không chịu nổi, bỏ việc mà chưa biết làm gì”.
Con đường cố gắng mãnh liệt và bền bỉ rất đặc biệt, khó tưởng tượng nổi của hai người phụ nữ này. Chúng đã diễn ra theo hai cách hoàn toàn khác nhau chung quanh một nguồn gốc chung: chiến tranh Việt Nam, bản lĩnh và nhu cầu hướng thiện, không cam chịu thất bại, cắn răng trì chí vượt lên của mỗi người Việt. Cuối cùng, họ đã đến Paris, nơi những người phụ nữ đã từng ngày sống sáng tạo và dấn thân bằng chính cuộc đời và nghị lực chính mình.
Những câu chuyện thật khó tin mà họ là nhân vật chính.
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên: “Hoàn thành giấc mơ không chỉ riêng mình”
Năm tôi học lớp 11, tình cảnh nhà tôi thế này: Từ 4 giờ sáng chúng tôi phải dạy chuẩn bị rồi. Sáu giờ rưỡi, tôi đi học. Nhưng nhà nghèo, không có xe đạp để đi tới trường, tôi thường đứng trước nhà để đi quá giang các bạn học chung trường. Hôm nào ra trễ, họ đi hết thì tôi phải nghỉ ở nhà.Học trung học, tôi chỉ khá môn văn học và lịch sử. Tôi cũng thích môn hoá học nhưng không khá vì bận phụ giúp gia đình tôi không có đủ giờ học bài. Khi tốt nghiệp trung học, tôi không có ý định đi học đại học vì ở trong làng, 15 – 16 tuổi là họ bắt đầu lập gia đình rồi.Lúc đó tôi 17 tuổi.Mẹ muốn tôi đi học đại học nhưng tôi không chịu đi.
Khi tôi 21 tuổi, gia đình đi định cư ở Mỹ. Đến Mỹ, mỗi chúng tôi có vài bộ quần áo, và cả gia đình có vài trăm đô la và biết vài chữ tiếng Anh. Thời gian đầu ở Mỹ, gia đình tôi rất cực. Tôi từng nhiều lần khóc đòi về Việt Nam vì không nói được tiếng Anh, cũng như không quen thuộc phong tục tập quán Mỹ. Khó khăn nhất là ngôn ngữ, khi ấy đi đâu cũng phải nhờ người thông dịch. Nhiều lúc tôi bị coi thường vì không biết tiếng Anh và nghèo, có những người chế nhạo tôi vì tôi phát âm tiếng Anh sai.
Tôi quyết tâm học tiếng Anh thật nhanh bằng cách đi học tại ba trường ở ba thành phố mỗi ngày.Sáng, chiều và tối, mỗi buổi học ở một trường. Mỗi ngày tôi xem tin tức trên đài truyền hình Mỹ để tập nghe. Tháng 9/1993, tôi xin vô học Santa Monica College. Tôi tham gia bốn lớp tiếng Anh dành cho người nước ngoài.Tôi học ngày đêm, rồi tới những trung tâm dạy kèm sinh viên miễn phí trong trường để học thêm. Sau một năm thì tôi được vô học chính thức như những sinh viên khác… Tôi đi làm thêm trong nhà hàng, tiệm nail, thư viện của trường.
Tôi tâm niệm là: không nổi giận hay nói nhiều mà tôi muốn cho mọi người thấy những gì tôi có thể làm.
Con đường đến với khoa học của tôi rất khác so với những nhà khoa học khác.Tôi vốn yêu thích lịch sử thế giới và văn học, thích địa lý nhưng lại không đủ tiếng Anh để đọc sách. Vậy là tôi chuyển sang lớp Toán, rồi Hoá học rồi Sinh học. Sau đó, tôi dần trở nên hứng thú với hóa học và bắt đầu theo đuổi con đường này.
Tháng 9/1995, tôi xin chuyển lên Đại học California, Los Angeles và làm thêm trong phòng thí nghiệm với công việc rửa dụng cụ. Tôi đứng rửa dụng cụ nhưng mắt theo dõi những người làm thí nghiệm. Muốn nghiên cứu mà không được phép vì kém tiếng Anh, tôi lại chuyên tâm hơn trong học tiếng Anh. Tốt nghiệp đại học năm 1997, tôi nộp đơn học cao học và chỉ một năm sau đã có bằng thạc sĩ ngành Lý – Hóa.
Tháng 6/2001, tôi nhận bằng tiến sĩ, trước cả những sinh viên trong phòng thí nghiệm nơi tôi từng phải rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ và chỉ mất khoảng hơn ba năm. Tôi viết 12 bài báo khoa học và thuyết trình 19 lần ở đại học trong nước và hội nghị quốc tế. Tháng 9/2001, tôi làm nghiên cứu tại Đại học Columbia ở New York. Trong thời gian này tôi cũng làm hợp tác với những khoa học gia ở IBM ở Yorktown Heighs, tiểu bang New York. Tôi chính thức giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học California, Santa Barbara (UCSB) từ hè năm 2004, tức 13 năm sau khi đến Mỹ.
Khi trở thành giáo sư ở Mỹ, cần tự xây dựng và điều hành phòng thí nghiệm riêng mình, gây quỹ để làm nghiên cứu, thành lập đội ngũ. Với một giáo sư trẻ là rất khó. Đã có lần tôi khóc vì bị đồng nghiệp cấp cao bắt nạt. Thường tôi khóc một hai ngày rồi lại cố gắng đi tiếp.
Tôi gặp rất nhiều khó khăn trong năm năm đầu tiên của sự nghiệp. Có ba nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu của tôi tại UCSB, một giáo sư đã đoạt giải Nobel Hóa học năm 2000 – GS Alan Heeger. Tôi phải chứng minh bằng sự đóng góp nỗ lực của mình trong lĩnh vực bán dẫn hữu cơ và điện tử hữu cơ. Các nghiên cứu của tôi xoay quanh tính chất quang học và điện của chất nhựa liên hợp, giao diện trong các thiết bị quang điện tử, việc tạo và vận chuyển điện tích trong chất bán dẫn hữu cơ, vật liệu mới cho các ứng dụng pin mặt trời hữu cơ…
Chọn hướng nghiên cứu vật liệu mới cho ứng dụng pin mặt trời hữu cơ là vì suốt 16 năm thời thơ ấu tôi sống trong cảnh không có điện ở quê nhà.
Đến nay tôi đã có bảy phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu.Tôi đã hướng dẫn 167 sinh viên, khoa học gia, và giáo sư làm nghiên cứu.
Tháng 2/2023, tôi rất vinh dự là một trong 124 thành viên được Viện Hàn lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc gia Hoa Kỳ (NAE) kết nạp làm viện sỹ. NAE thành lập năm 1964, có 2.420 thành viên người Mỹ và 319 người nước ngoài. Thú thật là tôi cũng chưa từng mơ ước hay tưởng tượng được rằng một ngày nào đó mình sẽ trở thành viện sỹ của Viện Hàn lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc gia Hoa Kỳ.
Tôi không chỉ hoàn thành ước mơ của riêng bản thân mình mà còn là cho cả mẹ tôi nữa, cho cả những người phụ nữ Việt Nam không có điều kiện hoàn tất giấc mơ.
Nhà văn Phan Thúy Hà: Ghi chép những ký ức đã phai…
Trong thời gian chán ngán việc ở nhà xuất bản, tôi nghỉ làm ở nhà trông con cho chồng đi làm. Mùa hè, tôi đưa hai con đi chơi. Trong một chuyến đi đến Tây Nguyên, tôi ghé vào thăm nhà một cô bạn.Bố của bạn nấu cơm mời tôi. Ăn xong, đột nhiên chú chỉ vào cổ tay của chú. “Có một mảnh bom ở đây cháu này”.
Tôi giật mình. Sao lại có thể có một mảnh kim loại trong cơ thể con người một cách “hòa bình” như vậy…
Rồi chú kéo áo lên chỉ cho tôi ba mảnh bom ở bụng, gáy và hông.Những mảnh bom chạm vào thấy lận cận.
Tôi thấy kinh hoàng. Hai đứa con trai tôi tò mò cũng lại sờ lên làn da của ông, bày tỏ sự đồng cảm với mẹ.
Chiến tranh trên đất nước chấm dứt, chú tiếp tục đi sang Campuchia thêm ba năm. Bị thương nặng, xếp loại 3/4, mới được về. Chú về quê đi cày ruộng. Mảnh bom ở gáy làm chú đau đầu, có lúc như phát điên. Sức khỏe yếu, chú không lao động nặng được. Nhà bên bờ sông La mỗi năm hai trận lụt, cuốn trôi nhà và đồ đạc.Dựng được nhà mới, mùa hè gió Lào, sơ ý cháy mất ngôi nhà. Trắng tay, rồi bế tắc. Các con khóc suốt đêm vì đói. Chú đưa vợ con vào Tây Nguyên cuốc đất làm rẫy, bắt đầu cuộc sống.
Tôi lặng đi khi nghe câu chuyện của chú.Cuối giờ chiều, tôi chở hai con về. Ra đến sân, tôi quay lại nói với chú: “Cháu sẽ viết những câu chuyện như thế này làm một cuốn sách. Cháu muốn chia sẻ vết thương này cho cả thế giới biết”.
Rồi một người bạn tôi giới thiệu tôi đi gặp người cậu của bạn ấy. Đó là chú Ngọc. Ngôi nhà chú ở ngôi làng cách làng tôi chỉ 12 cây số nhưng tôi chưa từng biết đến. Đó là một làng mà gia đình nào cũng có người đi bộ đội. Chú Ngọc dẫn tôi đến từng ngôi nhà, gặp các chú, các ông.
Chú Ngọc đã trải qua năm năm ở chiến trường với hơn một trăm trận đánh lớn nhỏ. Chú giải thích cho tôi từng từ ngữ dùng trong trận đánh. Một buổi chiều, trước lúc tôi về, chú mang thang trèo lên gác lấy xuống một túi ni lông. Trong đó đựng bảy lá thư và bức ảnh một thiếu nữ.
Đó là kỷ niệm của chú với một thiếu nữ Sài Gòn là con của một đại úy quân đội Việt Nam Cộng hòa, tức là “người của phía bên kia”. Chú mở phong bì, lấy thư ra, nhìn từng trang giấy, nhìn chứ không đọc. Tôi thấy nước mắt chú rơi xuống má.Chú nói, chú không dám đọc, đọc rồi đêm chú không ngủ được. Chú cho thư và ảnh vào túi ni lông, đưa cho tôi giữ.
Suốt quãng đường từ nhà chú về, tôi cứ tự hỏi: Tại sao họ lại có thể giữ cho riêng mình câu chuyện dữ dội như vậy?
Và rồi đến mẹ tôi. Biết tôi đang đi tìm những câu chuyện về chiến tranh, về người lính, mẹ tôi bảo: Sao con không viết về ông Lập, cần gì đi đâu xa.
Bác Lập là người hay đi cày giúp gia đình tôi. Nhà ở dưới chân dốc.
Mẹ kể rằng bác đã đi chiến trường 10 năm.Ngày ra đi bác sắp cưới vợ, mâm cỗ đã chuẩn bị, thì phải lên đường. Vợ sắp cưới của bác chờ đợi chín năm không nhận được lá thư nào của bác, nghĩ rằng bác đã hy sinh. Cô lấy chồng được hai chục ngày thì bác về.
Tôi ngạc nhiên nữa, khi biết ngay trong làng tôi, nhà nào cũng có người đi bộ đội, giống như trên làng của chú Ngọc. Và khu vườn sát nhà tôi từng có một quả bom rơi xuống làm chết bốn người. Những cái chết được kể rất ghê rợn.
Mẹ tôi nhắc đến sự kiện nào, nói tới ngôi nhà ai, tôi cứ như người từ nơi xa đến tìm hiểu.
Tôi lớn lên thì chiến tranh đã chấm dứt, những người lính trở về đi làm ruộng, sớm trưa chiều tối trên cánh đồng.Cha tôi phải dừng việc học đại học giữa năm thứ hai để vào chiến trường.Trở về quê, sự lớn lên của các con là tất cả. Chúng tôi lớn lên, lam lũ ruộng đồng. Việc học hành thi cử là cách duy nhất để đổi đời.Còn chiến tranh.Biết để làm gì.Thế hệ cha mẹ, ông bà khổ quá rồi, khổ thế đủ rồi.
Và chúng tôi được quyền không phải biết gì hết về chiến tranh.
Cha tôi, ông bộ đội đã nghỉ hưu, khắc khổ, tội nghiệp, gánh phân ra đồng, vớt bèo nuôi lợn, gánh nước lên dốc về nấu rượu.
Cha tôi đã mất. Tôi ân hận đã không biết một tí gì về chiến tranh. Những ngày tiếp theo tôi đi quanh làng, lân la hỏi chuyện các ông bà cô bác về những ngày làng mình chiến tranh và họ đã đi chiến đấu như thế nào.
Đêm xuống, tôi ngồi viết lại những gì nghe được và cảm được.Tôi hối hả viết.Chưa đến ba tháng, tôi đã viết xong bản thảo và đặt tên là “Đừng kể tên tôi”. Đó chính câu mà tôi thường xuyên được nghe họ dặn: Kể cho cháu biết vậy thôi chứ đừng viết ra làm gì, đừng viết tên chú, đừng kể tên chú, các con chú không muốn.
Tôi thấy xót xa ở lời dặn đó.
* * *
Bản thảo mang đến vài nhà xuất bản bị từ chối.Thế là tôi tự bỏ tiền ra in sách và phát hành.Tôi rất bối rối và thấy nặng nề.Nhưng tôi không ngờ chính việc trực tiếp bán sách lại mang đến cho tôi sự thú vị – được những người mua sách (bạn đọc) kể thêm cho nhiều câu chuyện của chính họ. Đó là cơ sở để tôi làm cuốn sách tiếp theo: Tôi là con gái của cha tôi.
Con gái của một “tay Việt cộng” đi vào miền Nam tìm hiểu về những người trước đây là “địch” của cha mình. “Địch” của cha tôi bây giờ là những ông già ngồi trên xe lăn bán vé số, là ông lái xe ôm khắc khổ trên phố ở Sài Gòn, Huế, Bình Dương, Biên Hòa, là những người bệnh nằm im lặng trong các căn nhà trọ hay trong những ngôi nhà nhỏ nép trong rừng cao su xa hun hút.
Các bác, các chú ở khắp nơi, tôi được đi khắp nơi.Những chuyến vào miền Nam tìm những người từng là người lính Việt Nam miền Nam giúp tôi tìm hiểu về đất nước, tâm hồn người Việt Nam.
Nhất là khi gặp những tình huống…
Một người chú đang kể chuyện bỗng nói: chú thấy phải nghi ngờ là cháu đang khai thác tin tức để cung cấp cho một thế lực nào đó.
Tôi mất bình tĩnh, bật khóc.
Một lần ở Huế, tôi đi cùng các con, tôi bị người vợ đuổi ra khỏi một ngôi nhà khi tôi vào nhà cô và nói chuyện với chồng cô những chuyện ngày xưa. Trên đường về, thằng con lớn khóc, tại sao mẹ phải như thế, con không cần mẹ phải làm những việc đó. Tôi vừa khóc vừa rối rít xin lỗi con.
Lần khác, là trong căn phòng trọ của người bán vé số. Chú Khải cụt một chân ngồi xe lăn, hỏi tôi là người của tổ chức nào khi tìm đến căn phòng trọ của chú, cho chú một số tiền…
Chưa kể là đi xa, tôi phải bỏ con ở nhà cho chồng chăm và không ít lần anh bận làm, quên đón con, để thằng bé tự tìm được, vừa khóc vừa đi bộ năm cây số về nhà.
“Tại sao em lại viết? Viết để làm gì?” Một người chị là nhà văn hỏi tôi như vậy khi biết tôi đang đi viết cuốn sách thứ hai.
Tôi thấy mình bị tra khảo. Tôi trả lời tại vì tôi muốn hiểu biết đến cùng những gì đã xảy ra.Đến nay thì tôi hiểu, việc đó không bao giờ xong được.
Tôi có một nỗi lo, là những người trong cuộc ngày một già, ký ức phai dần và quỹ thời gian của họ không còn nhiều.
Tôi vào miền Nam. Tôi sà vào từng ngôi nhà, tôi lội qua con nước, tôi đi ra cánh đồng, tôi nghe những câu chuyện. Tôi không còn khái niệm quê quán. Ở đâu cũng khuôn mặt vò võ khổ đau, ở đâu cũng ám trên mặt người nỗi sợ, ở đâu cũng nhiều người tốt phải sống trong bất hạnh.
Tôi hy vọng những cuốn sách của tôi khuyến khích được các bạn trẻ đi gặp các nhân chứng lịch sử, ghi lại thành những cuốn sử chép từ lời kể của người dân, là bảo tàng ký ức của những người trải qua các sự kiện lịch sử của thế kỷ 20 trên đất nước mình.
Paris – TP.HCM tháng 6/2023
Ký của Kim Hạnh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này