10:21 - 15/02/2024
Lê Thiết Cương: Thiết kế – yếu tố sinh tử cho làng nghề
Di sản văn hóa Việt Nam có ở khắp nơi, có cả trong từng món đồ vật nhỏ bé được làm ra bởi một nghệ nhân của một làng nghề truyền thống đã nhiều trăm năm tuổi. Nhưng nếu ta vừa được tin về một làng nghề trên quê hương bị mất đi, cùng đó, là một cuộc thi thiết kế cho các sản phẩm làng nghề truyền thống được tổ chức.
TGHN trò chuyện với họa sĩ Lê Thiết Cương, người đã góp sức không nhỏ cho các lò gốm, làng lụa được hồi sinh gần đây, và cũng là người ngồi ở ghế giám khảo các cuộc thi thiết kế mỹ thuật cho các sản phẩm làng nghề nhiều năm qua tâm sự về sự sống còn của làng nghề.
– Thưa anh, cách đây hơn 10 năm tôi được theo anh đến các làng nghề gốm cổ như Phù Lãng, Bát Tràng… làng lụa Vạn Phúc… và theo chân cả nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng đến các làng nghề làm chiếu, làm đồng… để chứng thực một điều: mỹ thuật VN ở ngay trong chính các làng nghề truyền thống. Vậy thì tại sao cho đến nay, một đất nước có cả hàng ngàn làng nghề truyền thống lại không phát triển được nền kinh tế chính từ nội lực này?
– Lê Thiết Cương: Các làng nghề sống thoi thóp, hấp hối hoặc đã chết hẳn đều chung một nguyên nhân chính: sản phẩm của họ không hòa nhập, không bán được, không sống được trong đời sống hiện đại. Cuộc sống đổi thay, nhu cầu đổi thay, thẩm mỹ thay đổi nhưng mẫu mã của họ lại đứng im, bình chân như vại, loanh quanh vẫn từng ấy hình dáng, hoa văn họa tiết từ mấy trăm năm trước. Tôi giật mình khi đi thăm làng gốm Chu Đậu vẫn cái dáng lọ hình đàn tỳ bà vẽ họa tiết hoa cúc dây và chim chích chòe như hồi thế kỷ 15. Như thôi chứ không thể bằng cha ông họ 600 năm trước vì nét vẽ thì khô cứng do cố chép cho giống, men áo thì pha bằng hóa chất công nghiệp nên vàng khè. Đó chỉ là một ví dụ. Thêm ví dụ nữa, nếu bạn đi thăm làng Bát Tràng thì sẽ thấy tràn ngập các loại chóe, lọ to cao lênh khênh, chả thà họ chép theo mẫu cổ thì họ lại phóng to gấp dăm bẩy lần rồi tô trát, đắp điếm các loại họa tiết rườm rà, rắc rối, cầu kỳ. Chưa thỏa, họ còn mạ men vàng lên thân sản phẩm theo kiểu càng nhiều vàng càng đẹp. Một thứ thẩm mỹ dị hợm, thiếu tự tin, trọc phú.
Qua đó để thấy, thiết kế là yếu tố quan trọng nhất đối với bất kể làng nghề nào. Thiết kế mẫu mã mới và đa dạng, phù hợp với cuộc sống hôm nay là điều kiện sống còn.
Thiết kế hay là chết? Khi mà thiết kế đã là một ngành công nghiệp, một loại hình nghệ thuật thứ tám của loài người. Giá trị của một sản phẩm nằm ở thiết kế, giá của sản phẩm cao hay thấp phải do thiết kế. Giả sử bạn mua một bộ ấm chén gốm của Bát Tràng với giá 100đ thì tiền thiết kế phải là 70đ, tiền nguyên liệu và công chỉ là 30đ chứ không phải ngược lại. Nói cách khác, lợi nhuận của bộ ấm chén có được từ chất xám, từ thiết kế chứ không phải do bán đất và than củi. Hàng thủ công nhưng không nên hiểu là bán sức lao động chân tay.
– Nói đến làng nghề truyền thống là nói đến những “bảo vật” quốc gia. Bảo vật ấy chính là con người- những nghệ nhân đạt đến trình độ thượng thừa với nghề của mình. Anh có cho rằng chúng ta không chỉ phải lưu giữ các bảo vật có tính vật chất mà cần nhất hiện nay chính là tìm lại những nghệ nhân ấy để có chiến lược xây dựng cho họ một nơi có thể sinh hoạt bằng cách truyền nghề cho thế hệ trẻ, từ ghi chép đến dạy nghề?
– Truyền thống nào, làng nghề nào gốm, gỗ, đồng bạc, tơ lụa gì đi nữa, muốn bảo tồn và phát triển thì bắt đầu phải từ yếu tố con người: không có nghệ nhân, không có thầy thì không có thế hệ kế tiếp, sẽ dẫn đến cái chết tất yếu thôi. Nghệ nhân là di sản người, tinh hoa nghề, bí quyết nghề đúc kết trong họ. Phải tôn vinh họ, bằng mọi cách kể cả tiền và danh hiệu. Chính quyền nơi có các làng nghề truyền thống phải tự tìm đến nghệ nhân, quan tâm, trân trọng họ thực lòng. Phải coi nghệ nhân là báu vật, là di sản địa phương. Chính quyền trung ương phải nhanh chóng thay đổi quy định, chính sách sao có lợi nhất cho các làng nghề truyền thống cũng như các nghệ nhân. Một nghệ nhân làng gốm đã ngoài 70 tuổi than với tôi rằng bà không được phong nghệ nhân ưu tú vì thiếu một điều kiện là không thống kê đã dạy được đủ 200 học trò. Quan chức các sở, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phải có những người tâm huyết với làng nghề và họ phải là người hiểu biết, có tư duy quản lý hiện đại. Với một số làng nghề đang thoi thóp, không những thuế bằng 0 mà còn phải trả họ thêm tiền vì bản chất là họ đang thay mặt chúng ta giữ truyền thống, giữ văn hóa cho dân tộc này.
– Khi tôi đặt vấn đề về làng nghề Việt Nam thì thấy đó là mối quan tâm của hầu hết dân chúng cả nước. Một trong những ý kiến có tính góp ý giải pháp đến từ giới văn nghệ sĩ VN là “làm thế nào để có thể xây dựng một bảo tàng làng nghề VN giữa thủ đô Hà Nội hoặc ở đô thị lớn như Sài Gòn”? Tôi cho rằng độc giả cũng rất muốn nghe ý kiến của anh về vấn đề này.
– Đặc điểm địa lý của nước Việt là hẹp bề ngang, phát triển theo chiều dài, “trời cao biển dài”, có nhiều biển. Có đủ ba địa hình, rừng núi, đồng bằng và biển. Vị trí địa lý của nước Việt cũng rất độc đáo, nằm ở góc mép của lục địa châu Á. Có dòng sông nào mà không chảy theo trục Tây – Đông. Nước Việt với mặt tiền biển Đông còn có thể gọi là đất nước của những cửa sông. “Phúc như Đông Hải”. Vùng văn hóa Việt Nam có nhiều tiểu vùng văn hóa mà mỗi tiểu vùng gắn với một dòng sông trải từ Bắc xuống Nam, sông Hồng, sông Mã, sông Lam, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Côn, sông Đồng Nai, sông Cửu Long… Có nền văn minh nào không ở bên sông? Có con sông nào mà không chảy trong lòng nó dòng nước – văn hóa? Có lẽ hiếm có nước nào nhiều làng nghề thủ công truyền thống như Việt Nam. Không những nhiều mà với đặc điểm địa lý như trên thì ngành nghề, làng nghề phong phú đa dạng cũng là đương nhiên. Đúc đồng, chạm bạc, mây tre đan, sơn mài, khảm trai, dệt lụa, mộc, gốm… Nghề nào cũng vài trăm năm tuổi đến hơn ngàn tuổi. Ấy là chưa kể với 65 dân tộc thì cùng nghề nhưng đặc tính mỗi tộc người một khác nên các sản phẩm cũng khác.
Đồ thủ công truyền thống như cái khay khảm ốc, đôi câu đối sơn son thếp vàng, thậm chí cái vại muối dưa gốm sành v.v. không chỉ là bản thân nó mà chứa trong đó là lịch sử, là văn hóa, là truyền thống, là tính nết của người Việt, dân tộc Việt. Các bảo tàng lịch sử, mỹ thuật, dân tộc học đều trưng bày sản phẩm thủ công. Nhưng theo tôi nhất thiết phải có một bảo tàng quốc gia về đồ thủ công mỹ nghệ truyền thống.
– Được biết vài năm gần đây, anh có ngồi trong ban giám khảo các cuộc thi về thiết kế sản phẩm làng nghề truyền thống VN. Nhận định của anh ở những sản phẩm có tính bảo tồn nguyên vẹn và những sản phẩm mang tính thời đại do các nhà thiết kế trẻ VN thực hiện như thế nào? Làm thế nào để chúng ta có được một thế hệ các nhà thiết kế trẻ cho các sản phẩm truyền thống VN ngoài “tài khéo” còn có tính mỹ thuật và tính ứng dụng cao? Xin được nghe ý kiến của anh về các giải pháp cho sự phục hồi làng nghề trong tương lai?
– Trở lại cái ý đã nói ở trên, thiết kế là yếu tố sinh tử cho sự tồn tại và phát triển của một làng nghề. Nguyên liệu, tay nghề, truyền thống là quý giá, là tài nguyên, là di sản nhưng bắt buộc phải có thiết kế thì mới biến di sản thành tài sản được, mới không còn cảnh những người thợ thủ công, những nghệ nhân nghèo đói trên di sản của mình. Mà thiết kế vừa là khoa học vừa là nghệ thuật và bắt buộc phải học mới có thể có nghề chứ chưa nói đến giỏi nghề. Thiết kế là một nghề, mỗi người mỗi nghề. Đừng bắt nghệ nhân phải giỏi thiết kế cũng như đừng bắt các nhà thiết kế phải có tay nghề như các nghệ nhân. Phải có sự liên kết giữa các nghệ nhân với các designer. Người thiết kế phải được học, hiểu rõ về chất liệu mà mình thiết kế. Không thể thiết kế một bộ trang sức bạc mà không hiểu kỹ nghệ chế tác bạc. Điều này liên quan đến khoa giáo của các chuyên ngành thiết kế của các trường đại học mỹ thuật. Phải mời các nghệ nhân đến giảng cho sinh viên về các chất liệu truyền thống để hướng sinh viên đến với từng chất liệu cụ thể. Đây là thời điểm thuận lợi nhất để ứng dụng máy móc công nghệ vào thiết kế cũng như chế tác, có thể dùng máy chế tác thô, gia công tinh bằng tay sau hoặc ứng dụng in 3D cho bộ mẫu sản phẩm. Ứng dụng máy cắt CNC trước và hoàn thiện thủ công sau v.v. Mọi sự sáng tạo chỉ có thể có khi bản quyền được tôn trọng, rồi còn vấn đề môi trường của các làng nghề. Bộ Văn hóa, Hội Mỹ thuật cần có những cuộc thi thiết kế thường niên cũng như tham gia các hội chợ đồ thủ công trên thế giới thường xuyên. Cũng rất cần kết nối các làng nghề với các công ty du lịch mở các tour tham quan – trải nghiệm nghề. Lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở các thành phố lớn. Thành lập sớm những trung tâm khởi nghiệp sáng tạo bằng con đường thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ, tập trung vào những nhà thiết kế giỏi. Họ sẽ là những người đưa được tinh thần mỹ thuật hiện đại vào truyền thống, họ sẽ tạo ra một truyền thống mới, một di sản hiện đại. Nếu các làng nghề, các người thợ thủ công, các nghệ nhân sống được bằng nội lực của họ thì đó là cách bảo tồn và phát triển bền vững nhất.
Ngân Hà thực hiện (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này