
09:54 - 21/01/2019
Nghĩ về dòng chảy chất xám Việt Nam
Đất nước đang chuyển mình trong thời đại toàn cầu hoá, trong kỷ nguyên của công nghệ số và trí tuệ nhân tạo.

Bia suy ngẫm của viện Khoa học và công nghệ Hàn Quốc (KIST) – một trong những tổ chức nghiên cứu hàng đầu thế giới, từng được sự ưu ái đặc biệt của tổng thống Park Chung-Hee.
Nhưng người ta nói quá nhiều về “cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, trong khi ít người hiểu được nội hàm của nó, cũng như tự đánh giá được chúng ta đang ở đâu để tiếp cận với trào lưu này của thế giới.
Mới đây thôi, ngài giám đốc World Bank Việt Nam, Ousmane Dione đã đưa ra một nhận định rất thực tế khi bàn về các giải pháp phát triển: “Sẽ không thể có công nghiệp 4.0 với một bộ máy 1.0”. Mà bộ phận quan trọng nhất của bộ máy ấy chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, phải có tư duy quản lý 4.0 và trình độ công nghệ 4.0. Hay nói cách khác là chúng ta cần có nguồn “chất xám” tương xứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này.
Chất xám chảy ngược
Việt Nam hôm nay cần lắm những tài năng, nhưng dường như “dòng chảy chất xám” lại chảy ngược! “Chảy máu chất xám” đang diễn ra trầm trọng, không chỉ “chảy” từ trong nước ra nước ngoài, mà còn từkhu vực công sang khu vực tư.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định cho sự phát triển của một quốc gia. Nguồn chất xám ấy có thể đào tạo trong nước, có thể thu hút từ nước ngoài; không chỉ là những tài năng về công nghệ, kỹ thuật mà còn cả về quản lý nhà nước, xã hội và doanh nghiệp. Người ta thường nói “nước chảy chỗ trũng”. Chất xám cũng “chảy” đến nơi có điều kiện làm việc thuận lợi hơn, có thu nhập cao hơn, có môi trường học thuật tự do và hiệu quả hơn. Tiếc thay, những năm gần đây chất lượng đào tạo trong nước ngày càng đi xuống, nhiều người trẻ tìm đường du học và không trở về, còn nguồn chất xám của người Việt ở nước ngoài rất khó “hồi hương”. Rồi đến nạn “chảy máu trong”. Nhiều người tài trong cơ quan nhà nước (viện nghiên cứu, đại học, doanh nghiệp…) đang ồ ạt chuyển sang làm việc ở các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn tư nhân…
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về việc trọng dụng trí thức, nhưng các quy định này vẫn không vào được cuộc sống. Hàng nghìn trí thức, chuyên gia người Việt, sau các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo các bộ ngành vẫn chưa thể trực tiếp tham gia vào các dự án trong nước. Nhiều địa phương có chính sách “trải thảm đỏ” mời gọi, nhưng ít bước chân người tài tìm đến, thậm chí có người đến rồi lại đi.Ra đi vì không được giao việc hoặc giao việc không đúng chuyên môn. Ra đi vì không được đáp ứng điều kiện làm việc tối thiểu, thu nhập quá thấp. Ra đi vì cảm giác cô độc trong môi trường học thuật… Cho đến nay, vẫn chưa có ai được hưởng chế độ đãi ngộ dành cho nhà khoa học đầu ngành hay tổng công trình sư, rất ít nhà khoa học trẻ nhận được tài trợ tham dự hội nghị khoa học quốc tế, các start-up triển vọng vẫn phải đăng ký kinh doanh ở nước ngoài, lương của giới khoa học vẫn ở dưới đáy thang bảng lương của lĩnh vực hành chính sự nghiệp… Vậy thì đừng vội trách vì sao Việt Nam có ít bằng sáng chế, ít sản phẩm thương hiệu quốc gia…
Ai thấy có lỗi?
Năm 2011, Chính phủ thành lập viện Nghiên cứu cao cấp về toán, và mời GS Ngô Bảo Châu của ĐH Chicago (Hoa Kỳ), người nhận giải Fields, làm giám đốc khoa học.Dù được Chính phủ cho cơ chế hoạt động thuận lợi hơn các viện công lập khác, nhưng cho đến nay hoạt động của viện không đạt được kỳ vọng.Đã có ai mổ xẻ nguyên nhân chưa?
Có ai cảm thấy áy náy khi GS Trương Nguyện Thành của ĐH Utah (Hoa Kỳ), người được mời về làm viện trưởng viện Khoa học tính toán (TP.HCM) hơn mười năm, phải rời Việt Nam do “không đủ điều kiện” đểbổ nhiệm hiệu trưởng ĐH Hoa Sen?
Có ai chia sẻ tâm tư của GS Nguyễn Văn Thuận, chủ tịch hiệp hội Công nghệ sinh học sinh sản châu Á, người đã rời bỏ ĐH Konkuk (Hàn Quốc) về làm việc tại ĐH Quốc tế TP.HCM, khi hơn năm năm trôi qua mà kế hoạch phát triển một trung tâm điều trị vô sinh và triển khai dự án nghiên cứu về biệt hoá tế bào và dược phẩm tái tạo vẫn chưa thành hiện thực?
Có ai thấy buồn lòng khi vợ chồng GS Trần Thanh Vân – Lê Kim Ngọc, những nhà khoa học nổi tiếng của Việt Nam ở Pháp, dù tuổi cao vẫn phải lo thủ tục hành chính phiền hà để tổ chức sự kiện “Gặp gỡ Việt Nam” hàng năm?
Có ai thấy có lỗi khi GS Pierre Darriulat, nhà khoa học nổi tiếng của Pháp, người đã từng làm giám đốc Trung tâm hạt nhân châu Âu (CERN), đến với Việt Nam như quê hương thứ hai, mong muốn giúp đào tạo chuyên gia trình độ cao, nhưng nhiều năm không có một phòng làm việc tử tế?
Ai sẽ phải chịu trách nhiệm về những dự án đào tạo khổng lồ mà kém hiệu quả trong thời gian qua? Để chuẩn bị nguồn nhân lực cho thời kỳ công nghiệp hoá, Chính phủ đã triển khai đề án 322 đào tạo cán bộ tại nước ngoài bằng ngân sách nhà nước từ năm 2000. Hơn mười năm, Nhà nước đã đầu tư trên 2.500 tỷ đồng gửi người đi học tại 34 quốc gia tiên tiến, trong đó có nhiều cơ sở đào tạo thuộc nhóm 50 trường hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, bộ Giáo dục và đào tạo xác nhận nhiều người đã ở lại nước ngoài, còn số về nước ít được các cơ quan nhà nước tuyển dụng, một số đã làm việc cho doanh nghiệp.
Năm 2010, Chính phủ tiếp tục triển khai đề án 911 thay thế cho đề án 322 với mục tiêu đầy tham vọng đến năm 2020 đào tạo được 23.000 tiến sĩ. Nhưng đề án này cũng đã phải dừng vào năm 2016, vì mục tiêu không phù hợp với năng lực các cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài, không đạt được hiệu quả. Sau năm năm triển khai (2012 – 2016), đề án 911 chỉ tuyển được hơn 3.800 nghiên cứu sinh, trong đó mới có 800 người tốt nghiệp.
Trong khi cùng thời gian đó, có dự án của nước ngoài dành cho Việt Nam lại thành công. Có thể nhìn vào kết quả của chương trình Quỹ Giáo dục Việt Nam của Chính phủ Hoa Kỳ (Vietnam Education Foundation – VEF), từ năm 2003 – 2015, với số vốn 5 triệu USD, đã hỗ trợ 547 nghiên cứu sinh Việt Nam theo học các chương trình sau đại học tại 99 trường đại học uy tín của Hoa Kỳ. Điều đáng nói, hầu hết học viên VEF sau khi tốt nghiệp đã trở về Việt Nam theo cam kết với chương trình.
Nhiều năm qua, bằng hình thức du học (ngân sách, cá nhân) hàng vạn bạn trẻ đã ra nước ngoài học tập.Nhiều người đã thành danh, nhưng ít ai trở về. Tôi đã nhiều lần tự hỏi: “Bao giờ chúng ta có môi trường học thuật và kinh tế đủ hấp dẫn để thu hút tài năng như Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Trịnh Xuân Thuận và hàng trăm nhà khoa học từ Silicon Valley, châu Âu, Nhật Bản… trở về?
Có ý kiến cho rằng, thời toàn cầu hoá, khi trở thành công dân toàn cầu, dù làm việc ở nước ngoài hay khu vực tư nhân cũng là cống hiến cho tổ quốc. Nhưng ai trả lời được câu hỏi: Liệu Mỹ có trở nên hùng mạnh nếu các nhà khoa học không đổ xô đến đây từ nhiều châu lục? Hàn Quốc, Israel liệu có trở thành “quốc gia khởi nghiệp” nếu nhân tài không trở về? Ngay cả Trung Quốc, liệu có trở thành cường quốc nếu không thu hút được chất xám của Hoa kiều? Nhìn lại Việt Nam, các cơ quan hoạch định chính sách, ban hành luật lệ, cơ chế, muốn làm được vai trò “kiến tạo”, “hội nhập” sẽ phải làm thế nào để thu hút chất xám?…
Ba câu chuyện cũ
Ai đã từng đọc cuốn sách Quốc gia khởi nghiệp của Dan Senor và Saul Singer (Israel) sẽ hiểu vì sao một quốc gia chỉ có sa mạc cằn cỗi như Israel lại trở thành cường quốc công nghiệp chỉ sau mấy thập kỷ. Shimon Peres, người hai lần làm Thủ tướng Israel, từng đoạt giải Nobel hoà bình, ở tuổi 83, tình cờ phát hiện ra chàng thanh niên Shai Agassi, CEO của một công ty sản xuất phần mềm, có ý tưởng sản xuất ô tô chạy điện thay thế ô tô chạy bằng dầu mỏ. Thật cảm động hình ảnh ông Thủ tướng già kiên nhẫn ngồi chờ nhiều giờ ở sảnh khách sạn, chấp nhận mạo hiểm với cái giá là nguy cơ mất danh dự, chỉ để gặp và thuyết phục năm nhà sản xuất xe hơi hàng đầu thế giới về công nghệ mới. Suốt hai năm ròng sau đó ông đã bỏ thời gian lôi Agassi vào 50 cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo và các ngành công nghiệp hàng đầu, tìm kiếm nhà đầu tư cho dự án tiềm năng này. Mai đây, khi hàng triệu ô tô điện thông minh lăn bánh trên toàn cầu, chắc chắn mọi người sẽ nhớ đến ông Thủ tướng tận tuỵ với công việc và biết trọng nhân tài.
Cộng đồng khoa học Việt Nam có nhiều người biết đến viện Khoa học và công nghệ Hàn Quốc (KIST). Một ngày cuối năm 1964, chỉ từ một bài báo của TS Choi Hyung-Sup, Tổng thống Hàn Quốc Park Chung-Hee đã tìm gặp và mời TS Choi trình bày quan điểm về phát triển khoa học và công nghệ tại cuộc họp nội các. Sau đó, Tổng thống Park giao TS Choi xây dựng KIST, toàn quyền tuyển chọn các nhà khoa học giỏi người Hàn từ Mỹ và Nhật Bản. Tổng thống Park nhận làm người đỡ đầu cho KIST, kiên quyết thuyết phục Quốc hội Hàn Quốc thông qua đạo luật đặc biệt cho phép KIST được miễn kiểm toán, kế hoạch hoạt động hàng năm của viện không cần Chính phủ phê duyệt… Tổng thống cũng ra lệnh cho bộ Nông lâm chuyển giao ngay lập tức 125ha đất cho KIST.Sau khi thành lập viện, mỗi tháng Tổng thống Park đều đến thăm viện hai lần để chuyện trò với các nhà nghiên cứu.Cũng chính Tổng thống Park đã quyết định mức lương cho nhà khoa học của KIST cao gấp ba lần mức lương giáo sư đại học trong nước. Tổng thống Park từng nói: “Mức lương của các nghiên cứu viên ở KIST cao hơn lương Tổng thống”. Ngày nay ai cũng biết, KIST đã trở thành một viện khoa học và công nghệ hàng đầu thế giới, góp phần vào “kỳ tích sông Hàn”.
Còn đây là câu chuyện của Việt Nam. Năm 1946 khi sang thăm Pháp để đàm phán ký Tạm ước 14 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gây ấn tượng mạnh đối với trí thức kiều bào. Và nghe theo lời kêu gọi của Người, có bốn nhà khoa học là Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh đã trở về. Họ đã từ bỏ cuộc sống nhung lụa ở nước Pháp, dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ. Trong xưởng quân giới nghèo nàn và thủ công, chỉ bốn tháng sau khi về nước, GS Trần Đại Nghĩa đã chế tạo được bazooka, một loại súng chống tăng hiện đại. Và trong các hang đá ở chiến khu, KS Võ Quý Huân đã thiết kế được các lò cao sản xuất hàng nghìn tấn gang thép, trong những cánh rừng Việt Bắc. GS Trần Hữu Tước đã xây dựng được chuyên khoa tai-mũi-họng và đào tạo hàng nghìn thầy thuốc phục vụ kháng chiến… Nhiều nhà khoa học lớn khác sau này cũng đã “theo chân Bác” về phục vụ tổ quốc như Tạ Quang Bửu, Lương Định Của, Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di…
Bài học quý rút ra từ ba câu chuyện trên là tầm nhìn cùng với uy tín của người lãnh đạo quốc gia, sẽ tạo ra thể chế thu hút và trọng dụng nhân tài.
Hy vọng mùa xuân mới với cơ chế chính sách phù hợp, sẽ có “dòng chảy chất xám” đảo chiều, hội tụ về dải đất hình chữ S này, để sớm xuất hiện những tên tuổi người Việt và thương hiệu sản phẩm Việt rạng danh trên trường quốc tế.
Tâm Nguyễn (theo TGTT)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này