19:25 - 08/03/2020
Cái cá biệt và cái phổ quát trong ‘Kính sợ và run rẩy’
Trong thời đại chúng ta, chẳng ai hài lòng với việc dừng lại ở đức tin mà còn muốn vượt xa hơn nữa khi đọc cuốn sách này.
Tác phẩm Kính sợ và run rẩy bắt đầu từ một câu chuyện trong Kinh Thánh, nơi Abraham theo lệnh Chúa sát tế đứa con Isaac yêu quý, đứa con hiếm muộn mà vợ chồng Abraham có được khi đã trên 100 tuổi. Abraham để củi dùng để đốt lễ toàn thiêu lên vai Isaac, còn ông cầm dao và lửa trong tay. Issac hỏi cha: “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?”, ông Abraham đáp: “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu con ạ”. Lên núi, ông Abraham trói con mình lại và đưa tay cầm lấy dao để sát tế con mình (theo sách Sáng thế câu 6 – 10 chương 22). Abraham vĩ đại và được tuyên phong là “Cha của kẻ tin” nhờ thế mà Abraham nhận được lời hứa rằng mọi dân trên thế gian này sẽ nhờ ông mà được phước.
Tác giả mong muốn có mặt ngay thời khắc khi Abraham đưa con mình là Isaac lên núi để sát tế. Với tác giả, cái ý nghĩ có mặt và nhập vai theo dõi một quãng thời gian Abraham nhận lời Đức Chúa sẽ sát tế con ruột mình và quãng đường chậm chạp lên núi Moriah khiến người ta run rẩy. Một tâm lý giằng xé khủng khiếp dưới cái nhìn của con người hiện đại. Các viễn tượng theo cách khác nhau về việc Abraham đưa con đi sát tế theo lời Thiên Chúa và sau đó trở về vẹn nguyên, được tác giả đứng trong hoàn cảnh “nhập vai quan sát” ấy giải thích khái quát dưới cái nhìn Thần học và văn hoá sát tế của người Do Thái cổ đại.
Biểu đạt theo luân lý thì hành động Abraham là cố tình giết hại Issac, còn biểu đạt theo tôn giáo là hiến tế Isaac… Nhưng với Abraham thì ông hoan hỉ đón nhận Issac khi được ban đến cho ông và sẵn sàng cũng như đủ thời gian chuẩn bị để đưa Isaac đến núi sát tế. Ông vâng lời Thiên Chúa và tin rằng Ngài sẽ trả lại cho ông đứa con theo cách thức nào đó. Abraham có đức tin và ông đã không hoài nghi, ông tin vào điều “phi lý” từ Thiên Chúa mà loài người không thể hiểu theo luân lý thông thường. Nếu ông tin vào luân lý thì ông đã không sẵn sàng sát tế con mình, và quay lại tự hại mình để bảo vệ con mình. Đức tin đòi hỏi sự từ bỏ vô hạn mà Abraham đã minh chứng.
Luận đề thứ nhất
Tác giả cho rằng, luân lý hiểu theo nghĩa thông thường là cái phổ quát, nó áp dụng cho mọi người. Nhưng trong trường hợp này, tác giả giả định là Abraham đã “từ bỏ tạm thời có mục đích” dựa trên một căn cứ nào đó (tác giả gọi đó là một sự đình bỏ) đối với luân lý. Và căn cứ đó là Abraham đã tin rằng Đức Chúa yêu cầu ông sát tế con mình để chứng tỏ đức tin và lại có cách để trả nó về cho ông. Đó là đức tin tuyệt đối – điều phi lý trong thế giới văn minh hiện nay. Kierkegaard đã biểu đạt luận đề này rằng, xét ở góc độ luân lý thì Abraham đáng ra phải bị truy tố và bị kết tội giết người nhưng “bởi đức tin chính là cái nghịch lý, rằng cái cá thể với tư cách là cái cá biệt, nằm trong mối liên hệ tuyệt đối với cái tuyệt đối, đứng cao hơn cái phổ quát. Abraham là đại diện của đức tin, đức tin được biểu đạt nơi ông thông qua hành động nghịch lý đến độ không ai có thể nghĩ tới, nhờ sự phi lý ấy mà ông với tư cách là cái cá thể đứng cao hơn cái phổ quát”.
Luận đề thứ hai
Liệu có tồn tại một bổn phận tuyệt đối với Thượng đế hay không? Nỗi thống khổ và niềm kinh hãi trong cái nghịch lý mà Abraham trải qua, phải có bổn phận hay không với Thượng đế khi mà Abraham đã mất bảy mươi năm để có được đứa con trai ở tuổi già như lời Thiên Chúa hứa, và rồi, ông lại vâng lời Thiên Chúa sát tế Isaac (đứa con mà Thiên Chúa đã hứa ban cho và rồi Ngài lấy lại từ lưỡi dao chính mình). Kierkegaard kết luận luận đề này rằng: “hoặc có một thứ bổn phận tuyệt đối với Thượng đế đó chính là cái nghịch lý – nó là cái cá thể với tư cách là cái cá biệt đứng cao hơn cái phổ quát nằm trong mối liên hệ tuyệt đối với cái tuyệt đối; hoặc đức tin chẳng bao giờ tồn tại bởi nó vốn đã luôn tồn tại”.
Luận đề thứ ba
Liệu Abraham có thể biện hộ được về mặt luân lý khi che giấu mục đích của mình không cho vợ và con biết hay không? Khi mà Abraham có ý định sát tế con mình là Issac, ông đã giấu kế hoạch đó với vợ và con, sự che giấu đó đã ở trong tình trạng tội lỗi; hoặc là khi ông nếu trả lời Issac rằng: “không biết gì hết về việc sát tế” là đã nói dối. Và, ông đã chọn im lặng trước vợ. Abraham đã không thể giải thích cho hành vi của mình. Với nỗi thống khổ không nói ra vì có nói ra chưa chắc chính mình hiểu thì không đòi buộc ai hiểu được. Tác giả cho rằng: “nếu kẻ hoài nghi có thể trở nên cái cá thể mà nó với tư cách là cái cá biệt, nằm trong mối liên hệ với cái tuyệt đối, thì hắn được phép im lặng”, bởi có bao nhiêu người trong thời đại chúng ta hiểu được sự phi lý là gì? Có bao nhiêu người trong thời đại chúng ta sống bằng cách từ bỏ hết thảy và đạt được hết thảy? Điều Abraham vâng theo lời Thiên Chúa không khiến ông hiểu được khi nói ra thì không nên nói ra, vì ông biết và ông tin đây là thử thách của Thiên Chúa (điều trái luân lý thông thường). Nên khi Isaac hỏi cha rằng chiên con làm của lễ ở đâu, ông Abraham không thể nói “con là của lễ” mà ông chỉ có thể nói “Con ơi, chính Đức Chúa Trời sẽ sắm lấy chiên con được dùng làm của lễ thiêu”.
Nguyễn Minh Thanh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này