11:27 - 17/11/2019
Học ngữ văn kiểu đối phó
Đến cấp 2, mọi chuyện dần trở nên khó khăn khi học sinh bắt đầu phải phân tích, phải “cảm nhận” một bài văn. Những điểm 9, 10 dần thay bằng 7, 8.
Giữ điểm số cho thầy cô và phụ huynh vui là khó khăn của hầu hết học sinh ngày nay, thế nên nghiễm nhiên, phương pháp an toàn nhất trở thành học đối phó.
Hiện tượng “học đối phó” này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, phổ biến nhất là vì học sinh không thể cảm nhận được nội dung và ý nghĩa của một văn bản nào đó. Khi học một văn bản, theo cách giáo dục “đổi mới” và “cải cách” hiện nay thì giáo viên phải để học sinh học nhóm, tự bàn luận và thậm chí thuyết trình về bài học. Tuy nhiên, phần lớn giáo viên vẫn giảng dạy theo phong cách cũ, vì điều này có vẻ quen thuộc hơn với giáo viên và có lẽ là trông vẫn đơn giản hơn đối với học sinh.
Có vẻ như sử dụng phương pháp cũ cả thầy cô lẫn học trò đều thấy bình thường, thậm chí nhiều học sinh còn thích nó vì số lượng bài tập ít ỏi hơn so với cách mới, nhưng cũng vì thế mà học sinh đâm ra lười biếng, học vẹt. Phương pháp cũ đè nặng lý thuyết một cách phi lý như một bài văn có ba-rem tưởng đó là chuyện hết sức bình thường, nhưng đến cả cảm nhận mà còn không phải là cảm nhận của chính mình thì còn gì gọi là văn chương?
Học sinh phải ngồi hằng giờ nghe những bài giảng dài lê thê, để rồi cuối ngày đem về được một nửa số câu từ đó trong đầu và vài trang giấy tập chi chít chữ mà khi đọc lại phần lớn còn không hiểu gì. Vậy mà vẫn phải in nó vào trí óc mình, vì đó là những gì mà một con điểm tốt đòi hỏi mà không cần động não, không phá cách, chỉ cần bám theo ba-rem là đã trọn 3 trên 4 điểm một bài “cảm nhận văn chương”.
Một trong những lý do khác ít được đề cập hơn là vì chương trình học. Số lượng bài học quá nhiều, thậm chí phương pháp chỉ “nghe và chép” còn phải gấp rút chạy bài, thì thời gian đâu để cho học sinh bàn luận và tự cảm nhận?
Nỗ lực để học sinh tiếp nhận văn học như là… văn học phải đến từ cả hai phía học sinh lẫn giáo viên. Điều quan trọng nhất, theo thiển ý của tôi, là phải thay đổi cách giảng dạy. Để đạt được điều đó phải bắt đầu điều chỉnh từ trong chương trình giảng dạy. Lược bỏ và thu gọn chương trình, tạo ra khoảng thời gian hợp lý dành cho mỗi bài để học sinh có thể chuẩn bị, thảo luận và trình bày ý kiến của mình, cũng như giáo viên có thể đi sâu hơn và mở rộng bài giảng.
Nhưng trên tất cả, chính giáo viên phải biết cách tạo cảm hứng và truyền nhiệt huyết đến học sinh, mà vẫn có thể diễn đạt được những ý chính một cách đầy đủ nhất. Mặc dù ba-rem vẫn có thể được sử dụng để duy trì tính đồng nhất, nhưng việc ép buộc một cách suy nghĩ duy nhất lên học sinh cần phải loại trừ dần trong mọi trường hợp. Về phía học sinh, muốn cảm nhận vẻ đẹp của văn chương, của tiếng Việt thì điều cần nhất là phải hợp tác với giáo viên. Thậm chí, tham gia xây dựng bài giảng cùng giáo viên. Khi cả hai bên cùng hướng về một mục đích chung, thì việc dạy và học tiếng Việt nói chung và văn học nói riêng ở nhà trường sẽ trở thành những giờ học có ý nghĩa sâu sắc với từng chủ thể.
Dạy và học tiếng mẹ đẻ, tưởng dễ mà khó cho giai đoạn mà giáo dục Việt Nam thường xuyên cải cách và đổi mới này.
Huệ Anh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này