10:15 - 20/05/2017
Có rất nhiều quan ngại về dự án thủy điện Pak Beng
Quan ngại lớn nhất với Pak Beng là báo cáo kỹ thuật tác động của dự án do Công ty Kỹ thuật Côn Minh (Kunming Engineering Company – ChinaPower) – đơn vị đảm trách – đã sử dụng các số liệu nền về thủy văn, thủy lực, phù sa, bùn cát… lạc hậu và thiếu. Các số liệu này có từ thập niên 1960-1970.
Từ 20/12/2016 rồi kéo dài tiếp sáu tháng sau, Ủy hội Sông Mekong (MRC) bắt đầu việc nghiên cứu “tham vấn trước” đối với dự án đập thủy điện Pak Beng của Lào trên dòng chính sông Mekong. Theo người viết, có rất nhiều quan ngại về dự án này, bắt đầu từ việc số liệu nền của dự án đã lạc hậu…
Pak Beng nằm ở Tây Bắc Lào, cách biên giới Việt Nam – Campuchia 1.933 kilômét; là công trình thủy điện thứ ba Lào thông báo sẽ xây dựng trong chuỗi 11 dự án thủy điện của Lào và Campuchia trên dòng chính sông Mekong, sau hai dự án Xayabury và Don Sahong đang được Lào xây dựng.
Pak Beng có công suất 912 MW, 90% lượng điện sẽ xuất sang Thái Lan, chủ đầu tư là Công ty Datang (Trung Quốc).
Hiện nay, tuy chưa kết thúc quy trình tham vấn bắt buộc trước khi xây dựng theo quy định tại Hiệp định Mekong 1995 của MRC đã được ký giữa Việt Nam, Campuchia, Lào và Thái Lan, nhưng từ năm 2015, Công ty Datang và phía Lào đã xây dựng các công trình cầu đường, bãi tập kết vật liệu, nhà xưởng ở khu vực xây đập.
Ngoài ra, vào tháng 3/2014, Chính phủ Lào đã cấp phép môi trường (environmental permits) cho Công ty Datang, trước khi trải qua các bước theo đúng tiến trình là xúc tiến thủ tục thông báo, tham vấn trước và chuẩn thuận (PNPCA), theo đúng tinh thần của Hiệp định Mekong 1995.
Còn trong quá trình tham vấn dự án Pak Beng, nổi lên nhiều quan ngại về thời gian, nội dung cũng như quy mô tham vấn cộng đồng, giống như trường hợp của hai dự án Xayabury và Don Sahong trước đây. Khi đó, chính phủ và các cộng đồng dân cư hạ nguồn Mekong phía Campuchia và Việt Nam đều không đồng tình các nội dung liên quan đến các tác động xuyên biên giới của dự án.
Quan ngại lớn nhất với Pak Beng là báo cáo kỹ thuật tác động của dự án do Công ty Kỹ thuật Côn Minh (Kunming Engineering Company – ChinaPower) – đơn vị đảm trách – đã sử dụng các số liệu nền về thủy văn, thủy lực, phù sa, bùn cát… lạc hậu và thiếu. Các số liệu này có từ thập niên 1960-1970; trong khi sáu đập thủy điện lớn trên dòng chính Mekong phía Trung Quốc đang hoạt động đã làm thay đổi hoàn toàn đặc điểm thủy văn – thủy lực từ thượng nguồn phía Trung Quốc dài đến vùng trung và hạ lưu sông Mekong.
Ngoài ra, thuật toán trong báo cáo này chủ yếu dùng phương pháp ước tính theo tỷ lệ khu vực nên chưa thuyết phục và không có điều kiện kiểm chứng. Các tiêu chuẩn đánh giá tác động lại sử dụng tiêu chuẩn của Trung Quốc mà không sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế của MRC.
Một khi số liệu thiếu, phương pháp kém, lệch chuẩn thì tất cả những kết quả về thủy học dòng chảy, phù sa, bùn cát, thủy sản, chất lượng nước, kinh tế – xã hội, giao thông thủy và an toàn đập đều vô nghĩa.
Các biện pháp giảm thiểu tác động của đập thủy điện này đối với hệ sinh thái và nhóm người bị tổn thương lại rất mờ nhạt, không thuyết phục, mang tính đối phó do thiếu cơ sở khoa học và điều kiện minh chứng, kiểm chứng.
Vấn đề này rất quan trọng vì lưu vực sông Mekong là nơi sinh sống của hơn 60 triệu dân, trong đó có 20 triệu người ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam, khoảng 16 triệu người Campuchia, khoảng 18 triệu người Thái Lan và xấp xỉ hơn 6 triệu người Lào.
Các tác động mang tính tiêu cực như thay đổi đặc điểm thủy học, trầm tích, nguồn thủy sản, hệ sinh thái, an toàn đập… dẫn đến sự tan rã của ĐBSCL sẽ tăng tốc và việc “hối tiếc” để giảm thiểu là vô cùng khó khăn và cực kỳ tốn kém.
Việc thương thuyết thỏa thuận liên quan đến phân chia quyền lợi về khai thác và sử dụng nguồn nước hợp lý với các quốc gia thượng nguồn nhằm bảo vệ hệ sinh thái và nguồn sống lưu vực Mêkông cũng chưa được lưu ý.
Vì tất cả những quan ngại này, theo tôi, trước mắt, nhà đầu tư nên hoãn lại việc xây dựng đập thủy điện Pak Beng và các đập khác trên hệ thống Mêkông cho đến khi các đánh giá tác động và giải pháp giảm thiểu, chia sẻ lợi ích khoa học và thuyết phục hơn. Trong đó, rất cần phải đẩy mạnh những giải pháp ngoại giao nguồn nước (hydro-diplomacy) để cứu nguy cho ĐBSCL.
Lê Anh Tuấn
Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu – ĐH Cần Thơ
Theo TBKTSG
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này