09:04 - 16/01/2023
Nhớ người ‘Trăm năm trong một chữ dân’
Hai cuộc ra mắt cuốn sách về người mà “Trăm năm trong một chữ dân” ở Hà Nội và TP.HCM, tôi đều tìm mọi cách có mặt. Biết rằng đến đó sẽ gặp biết bao người quen cũ không gặp, được ôm lại biết bao người thân thương của người ấy, nghe bao câu chuyện, buồn không bi lụy mà vui lại chảy nước mắt.
Hào kiệt áo vải
Giáo sư Trần Văn Thọ cũng về kịp có mặt cuộc ra mắt sách ở Hà Nội nói là anh tâm đắc bài viết của chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn tâm sự về “Người hào kiệt áo vải trong lòng tôi”. Ông Huỳnh Bửu Sơn viết những dòng chân chất thế này:
“Dòng đời vẫn lặng lẽ hoặc xôn xao trôi qua, nhưng dường như cái mất mát, cái khoảng trống mà ông đột ngột ra đi để lại đó không dễ dàng lấp được. Có hai câu trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi hay làm tôi nghĩ đến ông. Dẫu yếu mạnh, có lúc khác nhau/Song hào kiệt, đời nào cũng có. Một dải đất hẹp phía Nam Ngũ Lĩnh không hề kém cạnh phương Bắc trong việc sản sinh ra nhân tài tuấn kiệt. Và nhờ thế, để giữ gìn được độc lập, giữ gìn được bản sắc đã tồn tại và phát triển với tư cách một quốc gia trong mấy ngàn năm, mấy ngàn năm liên tục phải chiến đấu để tồn tại và cuối cùng đã tồn tại tuy đã từng có những lúc nước mất nhà tan.
Ông là một hào kiệt áo vải biết trân trọng tri thức và người trí thức. Không phải người hào kiệt áo vải nào cũng biết trân trọng kẻ sĩ. Ông Sáu Dân trân trọng kẻ sĩ bằng cả tấm lòng thành của mình, không màu mè, hình thức. Ông đến với họ thẳng thắn, cởi mở trong một tinh thần quang minh chính đại, lấy đại nghĩa quốc gia làm trọng, làm việc. Trao đổi với ông, người trí thức trong và ngoài nước tự thấy luôn nói đến, phải luôn nói đến điều nghĩa không dám nói đến điều lợi. Nếu có nói đến điều lợi thì là lợi ích chung của đất nước, dân tộc, không có chỗ cho lợi ích riêng tư”.
Đi bộ 10 cây số lên cầu Cốc Lếu chọn vị trí đặt thị xã tỉnh lỵ Lào Cai
Trong sách cũng có bài của một người không bao giờ viết báo viết sách, chỉ tập trung lo về kế hoạch với quản trị đầu tư của cả nước, lại tuôn tràn một bài dài và không ngần ngại lặp lại mấy lần rằng “ông là người tôi yêu quí, ngưỡng mộ nhất” là ông Võ Văn Kiệt. Cựu Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh viết:
“Thủ tướng Võ Văn Kiệt là một nhà lãnh đạo có trí tuệ, uyên bác, quyết liệt và gần gũi. Tất cả các tố chất ấy hòa quyện trong ông làm nên một ông Sáu Dân.
Năm nay Lào Cai kỷ niệm 30 năm tái lập thị xã tỉnh lỵ – Thành phố Lào Cai, và chính quyết định của ông khi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã để lại dấu ấn lịch sử đối với sự phát triển của tỉnh Lào Cai, một tỉnh địa đầu cực Bắc của Tổ quốc. Năm 1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn được chia tách thành hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái… Khi đó nghị quyết của Quốc hội chưa xác định được vị trí của thị xã, tỉnh lỵ ở đâu. Do thị xã, tỉnh lỵ của tỉnh Lào Cai trước đây nằm sát biên giới đã bị san phẳng hồi chiến tranh biên giới tháng 2.1979 và Lào Cai khi đó nằm trong khu vực biên giới hoang tàn đổ nát, đầy rẫy bom mìn. Vào lúc này, có hai quan điểm về sự chọn lựa vị trí đặt thị xã tỉnh lỵ: (1) Đề nghị chọn thị trấn Phố Lu, cách biên giới hơn 50 km, huyện lỵ của huyện Bảo Thắng làm trung tâm tỉnh lỵ. (2) Là muốn tái lập lại thị xã, tỉnh lỵ ở ngay địa điểm của thị xã cũ vì có tính lịch sử, có vị trí địa lý đắc địa, là đầu mối giao thông trên bến, dưới thuyền; nơi giao nhau giữa sông Hồng và sông Nậm Thi, là cửa khẩu quốc tế có giao thương tấp nập từ hàng trăm năm trước. Vì nội bộ không thống nhất, cho nên ông Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã phải đến Lào Cai.
Đã 13 năm sau chiến tranh, khi ông đến, trời mưa rất to, con đường đất đỏ dài hơn 10 km từ Cam Đường lên đến biên giới lầy lội và thật trơn trượt. Có ý kiến nói là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đừng lên sát biên giới vì quá nguy hiểm, nhưng ông vẫn quyết định đi bộ lên tận đầu cầu Cốc Lếu lịch sử – nơi đã bị đánh sập trong chiến tranh, đứng nhìn sang bên kia biên giới. Và tại đây, trong căn lán tạm, ông đã nghe lãnh đạo tỉnh báo cáo về sự sôi động của thị xã tỉnh lỵ Lào Cai trước đó và những dự kiến quy hoạch cho tương lai, cũng như phân tích những ưu, nhược điểm của mỗi phương án vị trí tỉnh lỵ.
Chiều hôm đó, tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh, sau khi nghe các ý kiến, ông đã đưa ra những phân tích, đánh giá và luận cứ khoa học về kinh tế, chính trị, về chiến tranh hiện đại và ông quyết định chọn phương án hai: tái lập lại thị xã Lào Cai cũ trước đây.
Quyết định chỉ sau hai chuyến đi thăm và hai ngày sau chuyến thăm này, trên cương vị là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông đã ký ban hành quyết định chọn thị xã Lào Cai là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Lào Cai mới. Đó là một quyết định vô cùng sáng suốt, mang tầm chiến lược quan trọng không chỉ đối với biên giới Lào Cai mà cả đất nước nữa”.
Ông già đã nghĩ tới “chữ dân” từ lâu!
Tại cuộc ra mắt sách nhân 100 năm ngày sinh của ông, lần đầu tiên tôi nghe một người trong nhóm thứ sáu kể ngọn nguồn về sự ra đời của nhóm này… Chuyên gia kinh tế Phan Chánh Dưỡng bộc bạch về trường hợp ra đời “Nhóm thứ sáu”. Từ đầu anh em nhóm thứ sáu có bao nhiêu người cũng không nói được, nhưng tôi nhớ số người thường xuyên nhất là khoảng 24 – 25 người, trước đều làm việc về kinh tế tài chính hay luật pháp trong chính quyền cũ. Gặp nhau thì bàn chuyện kinh tế, chính sách. Có nhiều người ngạc nhiên “mấy ông làm gì mà cứ thấy mấy ông ngồi bàn cái chuyện của Nhà nước”. Nhà nước thì nào có nghe mình đâu nhưng mà mình cứ nói, cứ trao đổi. Rồi với ông Sáu, dần dần tụi tôi thấy điều mình nói với điều ông hỏi thì hầu như không có xa cách gì, không có điều gì về ý thức hệ xa cách nhau, vì tất cả đều là để lo cho dân. Bởi vì hình như cái điều chính đáng với ông Sáu Dân là đi làm gì cho dân, chứ không phải là xây dựng đất nước này theo chế độ này hay chế độ khác.
Tất cả đều là cần phải xây con đường, cái chợ ra làm sao để cho dân làm ăn; buôn bán thì buôn bán như thế nào, tất cả cứ tập trung vào những chuyện đời sống nhân dân. Cho nên khoảng cách giữa ông Sáu với chúng tôi càng lúc càng mất đi mà anh em trong nhóm thứ sáu cứ nhận thức chính ông Sáu Dân là đại diện cho thời đại chứ không phải là cho chế độ. Đó lại là một vấn đề nhận thức rất khác. Cho nên trong anh em, có người chỉ còn hai, ba tuần là đi nước ngoài theo bảo lãnh gia đình mà vẫn cứ đến họp góp ý cho chính sách để tạo thuận lợi cho cuộc sống người dân.
Cho nên khi ông Sáu lúc đó làm Phó Thủ tướng mời ra Hà Nội nói về giá lương – tiền thì tụi tôi bắt đầu viết đề án một cách đầy đủ nhất và mình đâu có nghĩ rằng ra đó để phản biện đâu. Chỉ nghĩ, cứ nói những gì mình suy nghĩ thôi mà không ngờ lúc đó khi ra trình bày thì một số anh em chuyên gia ở miền Bắc lại đồng ý với mình. Có câu chuyện vui là có anh còn nói thẳng, Anh ơi, cái này chúng tôi cũng có suy nghĩ qua mà chưa nói thôi. Tôi nhớ cuộc họp đó mở màn rằng quan điểm đúng thì không có xa cách Bắc Nam mà hình như chính chúng ta lấy cái đối nghịch của ý thức hệ làm chùn bước đi phát triển của đất nước này.
Cuốn sách này nói trăm năm một chữ DÂN là rất đúng với ông Sáu. Ở đây tôi muốn nói với cô Hiếu Dân, bây giờ tôi mới hiểu rằng ông già đã nghĩ tới chữ DÂN từ lâu, nghĩ từ lúc mới sinh ra chị đó. Tôi nhớ lại, khi ngồi họp với ông, ông kể những chuyện thời còn nhỏ của ông cho mọi người nghe nữa. Ông kể như một già làng kể chuyện cho làng xóm hay con cháu nghe. Vậy không phải gần dân là gì? Ít bao giờ mà nghe ổng nói theo cái kiểu là ông Thủ tướng đang chỉ đạo. Khi tôi nghỉ hưu rồi mà mỗi lần ông Sáu kêu là tôi đều đi họp. Đi mà tự lẩm bẩm, ông già nghỉ hưu rồi, tại sao ổng không chịu nghỉ hưu, ông kêu mình làm chi? Rồi tưởng sao, nghe kêu, mình cũng đi. Ông hỏi chuyện gì, về tôi lại nghĩ, lại nghiên cứu. Mà không chỉ mình tôi cả nhóm thứ sáu cũng thế. Cả nhóm thứ sáu cũng bị gắn với ông thật chặt một cách vô hình. Tôi không biết hồi xưa mấy anh đi chinh phục người yêu để cưới cho bằng được thì có theo đuổi miệt mài, nhiều lần vậy không. Hỏi nhau rồi tụi tôi cười nói với nhau, sức hút của ông Sáu còn lớn hơn nữa chứ.
Rất nhiều chuyện chưa từng nghe hay chỉ nghe đồn, nay được nghe người trong cuộc kể. Đó là câu chuyện bà Tôn Nữ Thị Ninh từng góp phần kết nối cho ông Phó Thủ tướng CHXHCN VN gặp ông (nguyên là) Phó Thủ tướng VNCH. Bắt đầu là từ chuyến đi dự Diễn đàn Kinh tế thế giới của ông. Ông Sáu đi dự hội nghị Davos Thụy Sỹ năm 1999, đó là nơi có mặt các nhà lãnh đạo Chính phủ, nhà nước, các chủ tập đoàn, các nhà báo nổi tiếng, các học giả xuất sắc. Tôi biết ông Sáu chưa từng học về ngoại giao cũng chưa từng đi nước ngoài làm đối ngoại lúc đó. Nhưng thật lạ, chỉ đọc tài liệu, đọc sách, lắng nghe, và với sự thông minh đặc biệt ông hiểu ngay Diễn đàn Kinh tế thế giới là cái gì? Tôi ngạc nhiên về những câu hỏi của ông khi gặp các chính khách thế giới, đặc biệt khi ông gặp ông Lý Quang Diệu. Tôi thấy rõ là ông cảm nhận được, Việt Nam, muốn phát triển thì phải đi với thế giới, phải hiểu thế giới để mà rút tỉa bài học phát triển gì từ thế giới và đóng góp cái gì cho thế giới Khi gặp ông Lý Quang Diệu ông hỏi về chính sách đối xử với công chức và tôi thấy ông nhận rõ là cái sạch sẽ của bộ máy công quyền chính là một trong các chìa khóa của thành công vượt bậc của Singapore đối với thế giới.
Trong chuyến đi tôi có sứ mệnh là liên lạc với nguyên Phó Thủ tướng chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Hảo. Hai vị đã liên hệ với nhau bằng thư từ từ trước rồi và ông Nguyễn Văn Hảo đã bay sang Geneve và hai vị gặp nhau ở đây.
Chắc nhiều người còn nhớ câu chuyện anh Huỳnh Bửu Sơn kể về kho vàng của chính quyền Sài Gòn. Lúc xáo trộn ngày 30.4, những ông tướng cuối cùng chế độ cũ đến định đem vàng đi London nhưng ông Hảo từ chối, với lý do vàng đó là của Việt Nam, của đất nước này thì phải để lại đây.
Ông Sáu cho rằng đó là một việc làm yêu nước, phải khẳng định như thế luôn, dù đó là ai, việc làm đó là yêu nước cho nên ông Sáu muốn gặp để mời ông Hảo về nước. Năm mà anh Sáu mất, tôi nhận được một cú điện thoại của ông Nguyễn Văn Hảo. Ông Hảo nhắc đến chuyến đi Hà Lan mà ông Sáu chuẩn bị lên đường thì phải dừng vì ông ngã bệnh.
Như vậy là gì? Một quan chức lớn của chế độ cũ mà khi ông biết họ yêu nước thì ông hoàn toàn không có định kiến gì cả, rất là công bằng, và cư xử rất là đúng mực. Cho nên ông Nguyễn Văn Hảo mới về. Đó không chỉ vì cái tầm của ông Sáu mà còn vì cái tâm của người vì dân. Chữ dân ở đây là toàn bộ dân Việt Nam dù trong quá khứ ở chiến tuyến nào, dù sống ở đâu, ở miền nào của đất nước.
(Chúng ta nhớ là Thủ tướng Võ Văn Kiệt là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên của Việt Nam, dám mời một người nguyên là Phó Thủ tướng (và quyền Thủ tướng năm 1964-65) của chế độ Việt Nam Cộng hòa là ông Nguyễn Xuân Oánh về làm cố vấn cho văn phòng kinh tế của Thành ủy những năm mà ông Sáu làm Bí thư Thành ủy).
“Dám nghĩ , dám làm và biết làm”
Còn nhà thơ Nguyễn Duy, vừa gặp ông đã không ngần ngại đọc trước mặt tặng ông bài thơ “Bán vàng” dù lòng băn khoăn ông ấy sẽ làm gì mình không như nhà thơ vẫn cứ đọc. Lần thứ nhì, nhà thơ cùng nhà văn (Nguyễn Quang Sáng) và nhạc sĩ không ít nổi tiếng Trịnh Công Sơn đã cùng làm bữa tiệc ở nhà riêng chiêu đãi ông (phân công, nhà thơ nấu bếp, nhà văn làm bồi và nhạc sĩ “tiếp viên”). Lần sau là bài thơ “Đánh thức tiềm lực” và sau khi nghe xong, ông Sáu nhìn nhận: “Nặng, nặng lắm nhưng… chịu được”.
Cuộc ra mắt sách ở thành phố có một nhân vật từ trang sách bước ra là anh Nguyễn Duy Nguyên, Tổng Giám đốc công ty cơ khí Thiện Mỹ. Anh bùi ngùi kể: Tôi biết chú Võ Văn Kiệt từ những năm 77, 78; lúc đó thì tôi cũng mới bắt đầu bước vào tuổi thanh niên, tức là khoảng 15, 16 tuổi. Tôi từng nghe ông nói và nhớ mãi một câu: “con người ta không ai được chọn cửa mà sinh ra”. Đến năm 80 tôi tốt nghiệp cấp ba, đạt danh hiệu thủ khoa của Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi Trẻ có bài khen. Một hôm, có một ông cán bộ nhà nước tên Nguyễn Văn Huấn đến nhà thăm. Tặng cái cặp và nói đó là món quà do Thủ tướng Đức tặng chú Sáu và ông tặng tôi với xấp vải may áo sơ mi đi học. Ông Huấn hỏi em có mong muốn điều gì không thì tôi tâm sự là chỉ mong ba tôi (là Trung tá) đang đi học tập được về. Hai tháng sau, ba tôi về, có đưa tôi xem thư tay chú Võ Văn Kiệt gửi cho ông Phạm Hùng lúc đó là Bộ trưởng Nội vụ về những cố gắng của gia đình tôi và tôi. Sau này tôi hiểu chú Sáu không chỉ là ân nhân của gia đình tôi mà của nhiều gia đình khác nữa.
Sau đó nhiều năm, anh Nguyên cũng có nhiều cơ hội xuất cảnh nhưng anh và gia đình không đi và nay đang là chủ doanh nghiệp chuyên về công nghiệp hỗ trợ, cung ứng hàng cho các công ty đa quốc gia. Anh nói gia đình anh luôn cố gắng làm việc và đóng góp cho quê hương, trong sâu xa cũng từ lòng tri ân chú Võ Văn Kiệt.…
Ai cũng có ông trong một đoạn đời. Biết bao nhiêu bạn trẻ đã lên đường ngày ấy khi mà ông nói: Thành phố soi thấy tương lai mình trên vầng trán các em, trong cuốn sách “Kính chào thế hệ thứ tư!”. Mỗi người lại có cách “định nghĩa” ông khác nhau. Thằng con trai của tôi thích gọi ông là “Ông ngoại Sáu” khi nó thấy ông trên tivi mà cả thời gian dài sau khi ông đã chuyển ra Hà Nội, nó không hiểu ông… đi đâu mất.
Cựu chủ tịch thành phố Võ Viết Thanh nhấn mạnh, ai đó nói ông là “Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” là chưa phải, chưa đúng. Phải nói ông “Dám nghĩ, dám làm và biết làm”, chữ “biết” là quan trọng. Cũng như nhà thơ Việt Phương từng nói, ông là con người của Giải Pháp, một “mit xtơ Giải Pháp” thứ thiệt. Vấn đề nào rắc rối, phức tạp rồi thì ông cũng phải tìm cách giải quyết, cách xử lý. Không nghĩ ra thì ông cầu tới chuyên gia, lắng nghe, thảo luận với họ. Nên có ai đó nói ông chỉ là nhà thực tiễn, không phải nhà lý luận thì nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Hòa cãi, ông là nhà lý thuyết phi truyền thống, tức là vượt lên trên truyền thống.
Nhiều người có ông trong một đoạn đời
Vâng, tôi tin rất nhiều người trong chúng ta đều có ông trong một đoạn đời. Dù không có một mối quan hệ riêng tư, ruột thịt đặc biệt với ông. Vẫn cứ thấy có dáng dấp ông, dấu ấn của ông trong đời. Lâu rồi, tôi nhớ có lần tôi buồn bực bày tỏ, trong một cuộc tưởng niệm ông ở nhà riêng một người bạn cũ của ông: “Lắm lúc tôi bực mình tự hỏi, ông mất khi cũng đã cao tuổi rồi, đã tận lực rồi mà sao mọi người cứ nêu hoài câu hỏi, chuyện này cần ông mà sao ông đi sớm vậy, nếu còn ông thì chuyện nọ chuyện kia đã được giải quyết rồi… Sao ai cũng chờ ông, cũng đòi ông làm điều gì đó mà không tự làm đi, người sống hãy làm đi, chứ chờ ông chi cho cực ông quá vậy?”
Tôi nói xong rồi tối về tôi khóc một mình. Tôi cũng hiểu, chắc cũng vì người ta nhớ tiếc ông thôi… Những ngày cuối đời của ông, khi ông còn khỏe, tôi được gặp ông mấy lần và lần nào cũng nêu nhiều câu hỏi. Nhiều câu tôi hỏi, cho tới giờ này tôi thấy cũng chưa được giải đáp. Thành ra tôi vẫn lặp lại một điều là sẽ còn lâu lắm chúng ta mới khám phá ra hết cái tầm vóc của con người này. Cũng có nghĩa là còn lâu lắm dân tộc của mình mới tiếp tục và hoàn tất được hết những điều mà ông đau đáu và quyết tâm thực hiện bằng mọi cách.
Vì một chữ DÂN, cái gánh sâu nặng trọn đời của ông.
Kim Hạnh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này