09:38 - 14/11/2019
Giống lúa cho từng vùng và cho từng phân khúc
Phát triển kinh tế đồng bằng không thể tách rời hạt lúa, con cá, con tôm và cây ăn trái, rau màu. Riêng cây lúa – địa phương nào cũng đưa vào chiến lược phát triển, đang đối mặt nhiều hơn với những thách thức thiếu nước, nhiễm phèn, xâm nhập mặn…
Do đó, theo PGS.TS Võ Công Thành, bộ môn di truyền và chọn giống cây trồng – trường ĐH Cần Thơ, đồng bằng đang rất cần những giống chịu được hạn, mặn.
Đồng tình với cách đặt vấn đề trên, GS.TS. Nguyễn Thị Lang, viện Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cũng nói đã đến lúc tập trung tìm ra giống lúa mới thay thế các giống lúa hiện nay, chịu đựng được độ mặn từ 4 – 6‰, đưa vào canh tác ổn định như mô hình giống HATRI 190, HATRI 192, HATRI 170, HATRI 475 đã thử nghiệm tại Bến Tre.
“Việc phát triển năng lực nghiên cứu cho phép tạo ra giống mới, đáp ứng yêu cầu thay đổi của thị trường. Nhưng sau đó là phải tạo ra được vùng sản xuất lúa giống cấp nguyên chủng và xác nhận để phục vụ cho sản xuất. Ở từng địa phương, phải xây dựng các hợp tác xã (HTX) sản xuất lúa giống chịu mặn, sản xuất lúa hàng hoá và nông dân phải nắm vững công nghệ sản xuất lúa chịu mặn, để chủ động thích ứng với tình hình sản xuất khi hiện tượng biến đổi khí hậu xảy ra”, GS.TS Nguyễn Thị Lang phác hoạ.
PGS.TS Võ Công Thành khẳng định “việc đó có thể giải quyết được bằng công tác quản lý giống. Công nghệ – thiết bị hỗ trợ (việc tuyển chọn, lai tạo giống) bây giờ tuy có cũ, nhưng cũng tạm đủ xài để làm được một số chuyện. Về lâu dài, chắc chắn phải đầu tư thêm để đáp ứng yêu cầu”.
Giống cho từng phân khúc
Có một thực tế khác, theo các chuyên gia, đó là thực trạng canh tác nhỏ lẻ, nhiều giống, không theo quy trình kỹ thuật làm chất lượng không đồng đều, gây khó khăn trong việc tạo nên sản phẩm chất lượng ổn định. Như vậy, chọn giống để tạo dựng thương hiệu, cần kết hợp nhiều tổ chức để lựa chọn. Từ khâu giống, kỹ thuật canh tác đến thu hoạch, quy mô liên kết sản xuất sẽ cải thiện tình trạng như đã nêu trên. Trong lịch sử, nhiều chương trình chọn giống đã chọn năng suất tiềm năng là mục tiêu chính. Khi mức sống tăng lên, yêu cầu chất lượng hạt cơm phải ngon hơn, ưu tiên hơn.
Do đó, một nhà nghiên cứu lúa gạo ĐBSCL gợi ý “cần phải nâng cao hiệu quả chương trình chọn tạo giống lúa để tạo giá trị, vị thế mới cho thương hiệu gạo Việt Nam”.
GS.TS Nguyễn Thị Lang nêu ví dụ tại An Giang, địa phương có nhiều vùng sinh thái, nên chăng tổ chức lại cơ cấu giống cho phân khúc thị trường. Chẳng hạn hạt gạo Japonica nên có diện tích trồng khoảng 10%, hạt gạo dài 60%; hạt gạo đặc sản 20%; còn lại là các giống khác… để cung cấp cho thị trường xuất khẩu và nội tiêu.
Đối với các địa phương chịu ảnh hưởng trực tiếp của hiện tượng biến đổi khí hậu như vùng Phú Tân, tỉnh An Giang, phải xây dựng các mô hình để ứng dụng công nghệ, sản xuất lúa nếp xuất khẩu với quy mô là 200 – 300ha/xã. Vùng Tri Tôn cần sản xuất lúa gạo Japonica, như: BL12, DS1 HATRI 200…
Cần củng cố và tiếp tục thành lập các tổ sản xuất, các HTX để tiếp nhận quy trình công nghệ sản xuất lúa giống cấp siêu nguyên chủng (diện tích từ 0,02 – 0,03ha, sản xuất giống cấp nguyên chủng diện tích từ 30 – 40ha, sản xuất giống cấp xác nhận diện tích từ 10 – 50ha, và tổ chức sản xuất lúa hàng hoá với diện tích từ 1.000 – 2.000ha cho toàn tỉnh An Giang).
“Hiện nay, hầu hết các tỉnh chưa có định hướng giống chủ lực và ổn định, cũng như tiềm năng sẽ thay thế các giống, phục vụ cho phân khúc thị trường”, GS.TS Nguyễn Thị Lang nói.
Tổ chức HTX kiểu Nhật
Trình độ thâm canh của nông dân Việt Nam đang được mọi người ngưỡng mộ, nhưng chỉ diễn ra trên cánh đồng nhỏ bé của mình, và đang bị chia cắt bởi thị trường lớn. Nhưng trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là yêu cầu bức thiết cho sản xuất lúa ở ĐBSCL, tái cấu trúc nông nghiệp Việt Nam nhằm tăng cường liên kết hợp tác theo chuỗi giá trị, trong đó mô hình nông nghiệp công nghệ cao, với đầu ra được chế biến hoàn chỉnh cho đến bàn ăn: cần được ưu tiên hỗ trợ, thúc đẩy.
Các nông hộ nhỏ bé với tâm lý ngán ngại tham gia vào các tổ chức làm ăn quy mô lớn (vốn có những dấu ấn tiêu cực theo kiểu áp đặt cũ), dễ bị cô lập và là nạn nhân của biến động thị trường khi có khủng hoảng kinh tế lan rộng, thậm chí chỉ một áp lực nhỏ về giá gạo tại một thị trường nào đó, nên lâu dài vẫn phải là HTX nông nghiệp cải tiến với chính sách phát triển rõ ràng.
Việt Nam cần có chiến lược lâu dài và định hướng cho nông dân trong vùng sản xuất lúa gạo. Chúng ta phải tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác hoá, mới có thể phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, có quy mô sản xuất lớn, bao gồm cả khâu chọn giống, tổ chức sản xuất, bảo quản – tồn trữ, chế biến, lưu thông, mở thêm ngành nghề khác trong nông thôn. Tổ chức lại sản xuất bằng HTX kiểu mới rất thành công ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, và đặc biệt là Israel – nơi nông nghiệp công nghệ cao được đầu tư bài bản.
Khánh An (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này