14:55 - 12/04/2022
Lá dít không chịu xuống núi
Lá dít không thể thương mại hóa được, vì nó không chịu xuống núi.Nó mất hương hoang dã khi đem về đồng bằng thuần hóa…
Lần đầu thưởng thức món canh lá dít nấu với thịt gà ta thả rong của Phú Yên, kể như tôi bị… “đánh mất linh hồn”, từ đó. Nồi canh ngát thơm làn sóng tinh dầu của lá é, sả bằm với nhúm ớt chim quyện cùng nhựa mớ lá dít tươi; tạo cảm giác thật sảng khoái.
Hương gây mùi nhớ
Riêng lá dít, trông khá giống với lá trà xanh nhưng thon nhỏ hơn, mặt dưới lá phơn phớt tím.Trội vị chát. Khi dung hòa vào canh, nó còn thoang thoảng một hương thơm lạ, khá giống với mùi thơm của trái măng cụt chín. Vẫn chưa hết bất ngờ. Chính ông Nguyễn Phúc Ưng Viên, thầy thuốc thừa truyền triều Nguyễn ở quận Gò Vấp, TP.HCM khẳng định: “Ăn thường lá này, sẽ giúp ngừa bệnh lam chướng như cảm mạo, sốt rét”. Cũng phải thôi, bởi loại cây thân bụi này mọc nhiều ở một số huyện miền núi của hai tỉnh Phú Yên và Bình Định. Hoang dại! Nơi đây, còn rải rác một số dân tộc ít người sinh sống, như Ba Na, Ê Đê…
Anh Nguyễn Hữu Thành, biên tập viên kênh truyền hình An Ninh Phú Yên xác nhận rằng, cây lá dít mọc nhiều ở xã miền núi Sơn Định, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Và cứ mỗi lần nhắc đến nó, anh lại thèm “chết được” món canh gà nấu “đúng bài”, của một số dân tộc anh em sinh sống ở đây.
Theo đầu bếp Nguyễn Văn Bông, cũng dân Phú Yên, nồi canh gà lá dít phải nấu “đúng y bài” như vậy, mới cuốn hút bội phần. Đặc biệt, rổ lá dít phải vò sơ, cho vào sau cùng. Canh chừng nước sôi, dạo qua 1 – 2 bận thì tắt bếp. Làm vậy, nước canh sẽ không quá đục và tỏa mùi thơm đặc trưng thật hấp dẫn.
Dân địa phương thường nấu canh này với măng tươi (măng le, măng tre mỡ…), cùng 3 – 5 trái ớt chim gieo hoặc ớt xiêm xanh giã giập, thêm chén sả tươi bằm, mớ lá é trắng cùng vài nắm lá giang.
Ngoài làn hương gây hân khoái, vị canh cũng dễ hớp hồn dân sành ăn. Trội vị chua thanh dịu nhưng vẫn cân bằng ngũ vị: đắng-cay-ngọt-mặn-chua. Chấm cùng chén muối ớt giã.Càng húp càng ghiền, trán lấm tấm mồ hôi – người thêm tươi tỉnh.
Nhờ vậy, món canh tập tàng dân dã này, thơm ngon “bất chấp” cả hai mùa mưa nắng, nơi miền sơn dã của đất Phú.
Hoang dại mới quý
Được biết, vài chục năm trước, một số đồng bào ở đây, thường nấu canh này với thịt gà rừng gài bẫy được. Nhưng nay, “gà bay” trở nên khan hiếm, họ đành thay thế bằng đám gà rừng lai hoặc gà ta nuôi thả.
Cũng theo bếp Bông, sở dĩ người Kinh Phú Yên biết được món ngon lạ đang kể, nhờ một số dân đi buôn muối, đường… lên bán ở các huyện miền núi Phú Yên. Rồi họ đổi lấy gà, măng… của dân bản địa, mang về dưới xuôi bán lại.
Hoặc, do một số đầu bếp mê sưu tầm món ngon vùng miền như anh. Đồng thời, cũng nhờ món canh gà lá dít, bếp Bông đã đạt giải nhất cuộc thi sơ kết “Chiếc Thìa Vàng” năm 2013, khu vực Nam Trung bộ. Lúc đó, anh đang là bếp trưởng của khách sạn Kaya ở TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
Rồi từ đó, giới truyền thông cả nước lẫn dân sành ăn, có không ít người tròn xoe đôi mắt, tò mò hỏi: lá dít là lá gì? Diệu kỳ đến vậy sao?
Lá dít theo kiến giải trên trang blog của ông Lưu Khâm Hưng ở Úc hoàn toàn không giống với lá dít mọc dại ở Việt Nam. Ông viết: “Cây dít thuộc họ Zanthoxylum. Họ này có khoảng 250 loài, trong đó có loại gọi là cây sưng, sâng. Trung Quốc gọi là lưỡng diện châm (两面针) vì hai mặt lá đều có gai. Tiếng Anh là shiny-leaf prickly-ash. Sưng thuộc họ cam, lá có vị cam mạnh và hơi chua… Cây mọc dại ở các vùng rừng núi Việt Nam. Cây bụi, leo, có gai. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, gồm năm lá chét nguyên…” (1) Lá dít ở Việt Nam không hề “hai mặt có gai”.
Cũng từ ấy, lá dít lọt vào nhóm gia vị độc đáo của của Phú Yên, năm 2013 (cùng với muối kiến vàng, lá é…). Tiếp nối, nhiều phiên bản canh lá dít khác cũng được biết đến, như: nấu với ếch đồng, cá lạc biển… Nói chung là, tùy vào nguồn nguyên liệu tươi nguyên sẵn có của mỗi địa phương, người dân sẽ kết hợp chúng với mớ lá dít để tạo hương vị chua thơm ấn tượng cho nồi canh.
Thế nhưng theo anh Nguyễn Hữu Thành, nắm lá dít vùng Sơn Định chỉ thơm ngon đặc sắc khi hái từ cây mọc hoang dại. Bằng chứng là, vài người bạn của anh Thành, đã bứng mấy bụi cây này về trồng trong vườn nhà, ở TP Tuy Hòa, dùng làm gia vị hiếm đãi khách quý. Khổ nỗi, hương vị nó không còn đặc biệt nữa.Mặc dù, họ đã dày công chăm bón cây bằng phân hữu cơ.
Ông Ưng Viên còn lưu ý thêm: “Khuyết điểm của lá dít là, làm cho mồ hôi của người ăn nặng mùi hơn, nếu ăn thường. Và có thể phối thêm ít củ nén, để khắc chế “tật xấu” này của lá dít. Bằng cách, nướng sơ nhúm củ nén, rồi rửa sạch, giã dập, cho vào một lượt với thịt gà và măng”. Và phải công nhận rằng, nền “văn minh thảo mộc” (2) của một số dân tộc anh em vượt xa người Kinh ta quá đỗi, chỉ với món canh gà lá dít!
Tấn Tri (theo TGHN)
——
(1) Lược trích từ bài “Lá dít” của Lưu Khâm Hưng, nguồn:http://luukhamhung.blogspot.com/2017/02/la-dit.html.
(2) Từ của nhà văn Nguyên Ngọc trong sách Các bạn tôi ở trên ấy.
Có thể bạn quan tâm
Danh chấn giang hồ lưỡi: ốc len xào dừa
Nhớ nhà ngày trở lại chợ Eden
Ví dụ ta du xuân này ở Udon Thani
Sài Gòn chở cơm đi ăn mì
Kedisan một ngày thu rực rỡ
Tags:canh gà lá dítLá dít
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này