08:30 - 25/12/2015
Thị trường thẻ rộng về lượng, hẹp về chất
Cuộc đua phát hành thẻ ồ ạt tạo ra khoảng cách lớn giữa số lượng và nhu cầu thị trường, đồng thời kéo theo nhiều rủi ro.
Mỗi người sở hữu 4 – 5 thẻ
Đến cuối quý 3/2015, tại Việt Nam có khoảng 50 tổ chức phát hành với số lượng vượt 96 triệu thẻ các loại. Như vậy trong vòng năm năm số thẻ phát hành đã tăng hơn ba lần, từ 31 triệu thẻ năm 2010. Tuy nhiên, số thẻ đang hoạt động ước chỉ 68 triệu và tỷ lệ thẻ giao dịch thực tế còn thấp hơn nhiều, chỉ khoảng 60%.
Khoảng cách thị trường càng lớn hơn khi số liệu thống kê cho thấy chỉ khoảng 20 triệu người có tài khoản ngân hàng (khoảng 20% dân số). World Bank ước tính 31% người trưởng thành của Việt Nam có tài khoản ngân hàng, bằng 1/2 mức trung bình thế giới là 62%, tỷ lệ này còn thấp hơn khi khu vực nông thôn chỉ 19%.
Như vậy số lượng thẻ phát hành cao gấp bốn lần số tài khoản, tương đương mỗi người sở hữu 4 – 5 thẻ các loại. Trong khi đó, mô hình phát triển thẻ cũng chưa song hành với việc xây dựng văn hoá giao dịch và kết nối đồng bộ hạ tầng thanh toán, là yếu tố quan trọng thúc đẩy thị trường chung.
Toàn thị trường có khoảng 17.000 máy ATM và gần 195.000 máy chấp nhận thanh toán thẻ (POS). Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng POS đến 30%/năm và các ngân hàng cạnh tranh quyết liệt để phát triển hệ thống này.
Mật độ này tương đương với 1 máy POS/1.000 dân, theo số liệu của IDG Vietnam, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, chẳng hạn Thái Lan là 5 máy POS/1.000 dân hoặc Malaysia là 8 máy POS/1.000 dân. Bất cập càng lớn hơn khi độ phủ ATM và POS hầu như tập trung trong các thành phố, đã càng hạn chế việc phổ cập các dịch vụ thanh toán.
Theo ông Lê Thanh Tâm, tổng giám đốc IDG Vietnam, việc cạnh tranh phát hành thẻ đã đẩy số lượng thẻ tăng vọt mỗi năm, tuy nhiên chất lượng giao dịch không đi kèm khiến số lượng thẻ ảo tăng cao. Để cạnh tranh, các ngân hàng buộc phải đầu tư vào hạ tầng dịch vụ thanh toán và con người, nhưng không tận dụng hết năng lực là một lãng phí lớn trong đầu tư.
Thẻ ảo cũng phản ánh sự sai lệch về mục đích thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mà ngân hàng Nhà nước đề ra.
Thẻ cõng nặng phí
Các ngân hàng cho biết chi phí phát hành mỗi thẻ trung bình tại Việt Nam khoảng 5 USD, nhưng các tổ chức độc lập ước tính hơn 10 USD, cao nhiều lần so với mức trung bình của thế giới (khoảng 1 USD).
Việc phát hành thẻ ồ ạt không đánh giá được năng lực chi tiêu của người sở hữu, gây ra rủi ro cao về nợ xấu, không chỉ tăng chi phí phát hành mà còn phải đầu tư vào hệ thống bảo mật, không tối ưu được chi phí quản lý để tăng nguồn lực dành triển khai các dịch vụ hiệu quả hơn.
Sự bất cập của thị trường thẻ cũng dẫn đến bất cập cho người sử dụng, buộc họ phải chấp nhận nhiều loại phí từ chuyển khoản, rút tiền mặt, sử dụng SMS – banking… Chưa kể các loại phí sử dụng thẻ tín dụng, từ phí thường niên, phí phạt thanh toán trễ hạn, lãi phạt… hoặc lãi suất cao ngất ngưởng so với mặt bằng lãi suất thị trường, khoảng 25 – 30%/năm tuỳ ngân hàng.
Tỷ lệ thẻ nội địa vẫn đang chiếm gần 92%, cho thấy việc cạnh tranh về số lượng giữa các ngân hàng là không hiệu quả và lượng thẻ phát hành cũng chủ yếu tập trung ở những thành phố lớn. Doanh số rút tiền mặt tại các máy ATM hiện vẫn cao hơn 85%, chỉ 15% chuyển khoản và giao dịch phát sinh tại các điểm chấp nhận thanh toán. Như vậy phần lớn thẻ ngân hàng không sử dụng những dịch vụ tiện ích mang lại, đã làm hạn chế cơ hội gia tăng doanh thu của chính nhà phát hành.
Cuộc đua gia tăng thị phần thẻ đang mất nhiều công sức của các ngân hàng, đồng thời dẫn đến trì kéo việc đầu tư phát triển hạ tầng thanh toán rộng khắp cho thị trường, khiến cho các dịch vụ phái sinh từ thẻ thanh toán chậm phổ cập đến người dân, và chính những người sở hữu thẻ chịu thiệt hại với các loại phí cõng trên thẻ.
Số liệu của hiệp hội Thẻ Việt Nam trong sáu tháng đầu năm 2015, cho thấy số thẻ tín dụng quốc tế tăng 31%, trong khi số lượng thẻ nội địa chỉ tăng 20%. Doanh số sử dụng thẻ ghi nợ nội địa tăng 22,5% so cùng kỳ (hơn 700.000 tỉ đồng) trong khi doanh số sử dụng thẻ tín dụng quốc tế tăng đến 38% (24.000 tỉ đồng).
Số liệu của Visa cho thấy Việt Nam là một trong những thị trường phát triển nhanh chóng nhất của Visa trên thế giới, với tổng giá trị thanh toán bằng thẻ của Visa tăng 44% trong năm qua và số giao dịch cũng tăng hơn 40%. Theo IDG, doanh số thanh toán qua Visa năm 2014 đạt 4,5 triệu USD, là một con số ấn tượng của thị trường và dự báo sẽ còn tăng nhanh trong giai đoạn tới nhờ đa dạng tiện ích.
Ông Huỳnh Song Hào, giám đốc khối bán lẻ ngân hàng VCB, cho rằng công nghệ mới thúc đẩy thanh toán thẻ Việt Nam phát triển trong thời gian tới, tuy nhiên cũng khiến các ngân hàng càng gặp áp lực lớn trong cuộc đua này, buộc phải có chiến lược về giải pháp, dịch vụ và phương thức hoạt động hiệu quả. Việc đầu tư cho hệ thống cần đảm bảo theo kịp các xu hướng thanh toán hiện đại trong tương lai.
Quế Sơn
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này