08:59 - 17/05/2017
Tháo dỡ rào cản cho kinh tế tư nhân còn quá khó
Cạnh tranh quốc gia giục thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhưng ở Việt Nam rào cản về các thủ tục pháp lý, hành chính còn quá lớn.
Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia KX01.03/16-20, GS.TSKH Lê Du Phong, trường đại học Kinh tế TPHCM, cho rằng mấy năm gần đây thuật ngữ “Rào cản về thể chế kinh tế” xuất hiện khi trong thực tiễn không ít các quy định của các bộ luật và luật, các cơ chế và chính sách được đưa ra thực thi trong nền kinh tế, cũng như cách hành xử của các cơ quan và công chức thuộc bộ máy nhà nước đã gây nhiều khó khăn, trở ngại đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN) và người dân. Hậu quả là làm cho tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có xu hướng chậm lại.
Cỗ máy công cồng kềnh
Báo cáo Việt Nam 2035 do ngân hàng Thế giới và bộ Kế hoạch và đầu tư đưa ra năm 2016, cũng nêu ra câu hỏi “Những yếu tố nào là rào cản cho triển vọng phát triển kinh tế của Việt Nam?” Theo GS Phong, để giải đáp câu hỏi này, cần phân tích ba yếu tố quyết định hiệu lực của Nhà nước: thứ nhất, là năng lực của bộ máy hành chính dựa trên sự phân tầng rõ ràng, thẩm quyền thống nhất, chế độ chức nghiệp thực tài và quyền hạn được pháp luật quy định. Thứ hai là sử dụng các tín hiệu thị trường để phân bổ nguồn lực và sử dụng kỷ luật tài khoá để bảo đảm sự ăn khớp giữa chính sách và năng lực tài chính của Nhà nước. Thứ ba là sự tham gia rộng rãi của dân chúng vào quá trình hoạch định chính sách, để bảo đảm sự đồng bộ giữa chính sách và chương trình của Nhà nước với nhu cầu và khát vọng của dân chúng.
Nước Mỹ có dân số gấp bốn lần, diện tích gấp 30 lần Việt Nam nhưng cũng chỉ có 2,1 triệu người là công chức, viên chức trong khi Việt Nam có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tới 2,8 triệu người. Rào cản từ bộ máy nhà nước và cơ chế hoạt động của bộ máy là nặng nề. Theo GS Phong, cả nước có 23.000 đầu mối cơ quan có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật dẫn đến tình trạng loạn văn bản pháp quy, nhiều văn bản chồng chéo, bất hợp lý. Nghị định 109/2010/NĐ-CP quy định muốn có giấy phép xuất khẩu gạo, các DN phải có ít nhất một kho chuyên dùng có sức chứa tối thiểu 5.000 tấn lúa, một cơ sở xay xát gạo công suất tối thiểu 10 tấn/giờ, kho chứa, cơ sở xay xát phải thuộc sở hữu của DN và phải nằm trên địa bàn tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương có xuất khẩu gạo hoặc có cảng quốc tế có xuất khẩu gạo. Thực hiện theo nghị định này, nhiều DN đã bị loại khỏi “cuộc chơi”.
Cát tặc hoành hành cũng do cơ chế quản lý chồng chéo, kém hiệu quả dù có tới ba bộ Giao thông vận tải, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, và Tài nguyên và môi trường cùng quản lý sông ngòi, tài nguyên.
Việc tổ chức bộ máy chính quyền theo hướng gọn nhẹ, hiệu lực và hiệu quả đang được Chính phủ đương nhiệm chỉ đạo thực hiện tích cực, cũng theo GS Phong, cuối năm 2016, tại bộ Công thương từ 37 đầu mối còn 28, Hà Nội cắt 55 phòng ban, giảm 130 đơn vị sự nghiệp.
Tính đến tháng 6/2013, đã có 146.621 thủ tục hành chính và 10.784 văn bản có liên quan của 24 bộ ngành và 63 tỉnh, thành phố được cập nhật để DN và người dân dễ tiếp cận.
Năm 2016, có 252 thủ tục không cần thiết được Chính phủ loại bỏ, sửa đổi 901 thủ tục không hợp lý và bỏ 3.500 điều kiện kinh doanh đã ban hành chưa đúng thẩm quyền. Tổng cục Thuế đã bãi bỏ 92 thủ tục hành chính không hợp lý và giảm các thủ tục hành chính từ 385 xuống còn 300. Nếu như trước năm 2014, thời gian thực hiện thủ tục hành chính về thuế cho DN là 537 giờ, thì sau năm 2014 còn 247 giờ, rồi xuống 117 giờ. Thời gian thông quan cho một lô hàng xuất khẩu từ 21 ngày còn 14 ngày, đối với hàng nhập khẩu chỉ còn 13 ngày.
Rào cản từ luật
GS Phong cho rằng các rào cản còn xuất phát từ hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước, chẳng hạn luật Đất đai được ban hành năm 1993, đến năm 1998 đã sửa đổi một lần và năm 2001 sửa đổi tiếp. Luật Đất đai 2003 mới và sửa tới luật Đất đai 2013, nhưng vẫn còn 20 điều bất cập, tập trung ở thẩm quyền giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, định giá đất, thu hồi đất, tích tụ và tập trung ruộng đất.
Theo VCCI, chỉ có 11% DN tiên liệu được thay đổi trong chính sách do trung ương ban hành, 7% DN tiên liệu được thay đổi chính sách do địa phương.
Luật chồng chéo, mâu thuẫn, ví dụ: luật Bảo vệ môi trường quy định Đánh giá tác động môi trường là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định chủ đầu tư dự án, ngược lại luật Đầu tư không yêu cầu nhà đầu tư phải nộp Đánh giá tác động môi trường. Luật Đầu tư, điều 33, yêu cầu nhà đầu tư phải nộp “Đề xuất dự án đầu tư”, trong đó có địa điểm đầu tư, nhưng quy định của luật Xây dựng là cơ quan quản lý quy hoạch xây dựng có trách nhiệm giới thiệu địa điểm đầu tư xây dựng cho nhà đầu tư khi có yêu cầu. Luật Phá sản tạo điều kiện cho các DN khó khăn thua lỗ có cơ hội rút khỏi thị trường một cách có trật tự, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động và chủ nợ, tái phân phối tài sản… từ năm 2004 – 2013 số DN không còn hoạt động sản xuất kinh doanh cần giải thể là 140.000, nhưng chỉ giải quyết được 336 DN do luật khó thực thi trong thực tiễn.
Theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh công bố ngày 13.3.2017, có bốn điều đáng chú ý: 66% DN tại các tỉnh thuộc tốp giữa phải móc hầu bao cho các khoản chi không chính thức, cao hơn 12 – 15% so với giai đoạn 2008 – 2013; có 9 – 11% DN tham gia điều tra cho biết khoản chi không chính thức chiếm 10% tổng doanh thu của họ, cao hơn mức 6 – 8% của năm năm trước; tình trạng nhũng nhiễu khi làm thủ tục cho DN, tuy có giảm nhưng vẫn rất cao, giai đoạn 2008 – 2013 là 65%, năm 2016 là 58%, 25% DN FDI thừa nhận đã bôi trơn để có giấy phép đầu tư và 13,6% trả hoa hồng khi cạnh tranh giành hợp đồng.
Các nhà đầu tư dự án tới khi xây dựng nhà máy phải đụng bốn lĩnh vực: đầu tư, đất đai, môi trường, xây dựng, quy trình điều chỉnh của năm bộ luật, mười nghị định, chín thông tư và hàng loạt văn bản hướng dẫn cấp tỉnh.
Thị trường “các loại”
Các rào cản sinh ra từ cơ chế hình thành và vận hành các loại thị trường trong nền kinh tế. Thị trường đất đai là điển hình được hình thành trên chế độ đa sở hữu và thị trường quyền sử dụng đất.
Điều này không phù hợp với nhận thức chung của nhân loại, vì trên thị trường thiên hạ chỉ bán quyền sở hữu (tài sản, hàng hoá, dịch vụ) còn quyền sử dụng chỉ cho thuê hoặc mượn mà thôi. Chính vì thế dường như chúng ta không có thị trường sơ cấp đối với đất đai. DN và người dân rất khó tiếp cận với nguồn lực đất đai, trong khi đó thị trường ngầm về đất đai, tham nhũng từ đất đai lại rất nặng nề.
Thị trường lao động là điển hình về việc hình thành thị trường nhưng không xử lý vấn đề liên quan, khi những lao động trẻ, khoẻ, có kiến thức vào các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung không được thụ hưởng các dịch vụ công về giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá, nhập hộ khẩu, không được mua nhà. Trong khi đó, có tới 54% số người dân được hỏi cho rằng cần phải đưa hối lộ mới xin được việc làm trong khu vực nhà nước, con số này năm 2011 là 44%.
Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng 217 công ty nông – lâm nghiệp thuộc DN nhà nước, quản lý 1.938.338ha đất, lợi nhuận bình quân mỗi ha khoảng 1.442.988 đồng/năm, chưa kể các tập đoàn (hầu hết đều lỗ lã), thế nhưng mọi nguồn lực phát triển nhà nước đều ưu tiên cho thành phần kinh tế này.
Theo VCCI, có 27% số DN cho biết DN nhà nước có thuận lợi hơn trong tiếp cận đất đai và vay vốn tín dụng, 20% cho biết DN nhà nước dễ tiếp cận thủ tục hành chính về tài nguyên khoáng và 35% DN cho biết DN nhà nước thuận lợi hơn trong lĩnh vực mua sắm công. Điều tra của VCCI cũng cho thấy chính quyền địa phương ưu tiên hơn cho các dự án đầu tư nước ngoài hơn phát triển kinh tế tư nhân. Theo GS Phong, những rào cản do nhận thức về kinh tế thị trường và về chủ nghĩa xã hội, trước hết là đội ngũ, chủ trương, đường lối phát triển kinh tế – xã hội của đất nước chưa chuẩn, không mạch lạc, rõ ràng, vẫn còn bị những tư duy cũ ám ảnh, chi phối.
Ông đưa ra sáu giải pháp, trong đó nhấn mạnh kinh tế thị trường hiện đại là thành quả của quá trình phát triển kinh tế – xã hội của nhân loại, theo những quy luật, cơ chế nhất định không thể tuỳ tiện can thiệp được. Và, phải tập trung nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước các cấp theo đúng tinh thần Nhà nước kiến tạo, hành động và minh bạch, mạnh dạn tăng lương cho đội ngũ cán bộ công chức, bảo đảm cho họ có mức sống trung lưu.
“Phải kiên quyết xoá bỏ những quy định không phù hợp thông lệ chung của quốc tế hay thực trạng đất nước. Nền kinh tế thị trường càng đi vào hiện đại thì kinh tế tư nhân càng có vai trò quyết định đối với kinh tế – xã hội, đối với đất nước”, ông Phong khẳng định.
Khánh An
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này