08:40 - 02/02/2016
Nửa đêm nhớ ông tôi hát ‘Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi’
Nửa đêm, nhớ ông, tôi hát trong đầu: “Người ta đã có đôi rồi, chiếu chăn đâu ấm bằng người tình chung. Để mình vác cặp chiếu bông. Chờ đợi chi nữa uổng công đợi chờ”.
Và rộn rã hơn là bài ca thống thiết của chàng Võ Đông Sơ khi vĩnh biệt Bạch Thu Hà lại thường được mọi người đồng ca… vui vẻ vì ai nấy cũng thuộc, cũng yêu, nghe dân dả gì đâu: “Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi. Đường dài mịt mùng em không đến nơi. Mây nước buồn cơn lửa binh. Hết kể chuyện chung tình. Khóc than riêng em một mình”…
Người Sài Gòn những năm 60 thường mở “la dô” nghe những tiếng dạo đàn thân thương của “Sáu Tửng đờn kìm, Bảy Bá (chính là Viễn Châu) đờn tranh, Văn Vỹ đờn lục huyền cầm” rồi đến những bài vọng cổ mùi tận mạng của Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Minh Cảnh, Lệ Thủy…
Từ “Tình anh bán chiếu” qua “Võ Đông Sơ Bạch Thu Hà” thì “phù thủy” vọng cổ và cải lương Viễn Châu đã khởi xướng thể loại “tân cổ giao duyên” làm mưa làm gió một thời gian dài đến giờ.
Bố tôi, một ông thợ may Bắc Kỳ mê Ngọc Giàu, Út Trà Ôn, một hôm “phát hiện” ra rằng cô con gái đầu hay hát ê a theo “la dô” nghe cũng giống giống… Ngọc Giàu thì khuyến khích tôi đi học vọng cổ-cải lương.
Thế là, tôi vừa học trung học Gia Long, vừa đi học ca vọng cổ với thầy Văn Vỹ rồi thầy Sáu Tửng (rất nổi tiếng với cây đàn kìm) gần 3 năm trời.
Học hết 3 Nam, 6 Bắc, viết được vọng cổ nhịp 32, tôi với cô giáo dạy toán Lệ Dung làm thành một đôi độc đáo trong các chương trình văn nghệ của Nữ trung học Gia Long bấy giờ.
Sau này, không theo nghề hát, không mấy khi còn nhắc tới những bài ca vọng cổ cũ, nhưng tới giờ, kỳ lạ là tôi vẫn thuộc vẫn nhớ hầu hết những bài mình yêu thích mấy chục năm trước như bài Sơn Đông Hướng Mã và “cô bán đèn hoa giấy”, hay bài Lý Con Sáo mở đầu “Lan và Điệp” và những bài Nam Ai, Nam Xuân, Đảo Ngũ Cung, và còn nhiều nữa.
Tôi trở thành bạn thân thiết của soạn giả Hà Triều khi anh đến báo Tuổi Trẻ chơi, nghe tôi nói, tôi thuộc hết lớp Phụng Hoàng về cuộc gặp éo le của Tùng và Hương trong “nửa đời hương phấn” thì anh cười khà khà ngầm ý, xạo hoài.
Nhưng khi nghe tôi ca “ngon ơ” một hơi trọn bài xong, anh bắt đầu hiểu. Tôi nói với anh, không chỉ mình tôi thuộc, nhiều bạn bè của tôi cũng thuộc lớp Phụng Hoàng ấy, cũng thuộc Tình anh bán chiếu, Võ Đông Sơ… vì sự đồng cảm, đồng điệu, vì người viết tài quá, đã nói giùm họ nỗi lòng, tình yêu quê nhà, nỗi nhớ song thân, xóm làng, nói sao mà ngọt, mà êm, mà thấm tận gan ruột đến… suốt đời.
Những câu ca vọng cổ đó neo người ta với quê hương này, dạy người ta biết căm ghét bất công, đạo đức giả, biết yêu từng ngọn khói lam chiều nhà ngoại, nó nuôi người ta thành người.
Chú bẩy Viễn Châu để lại 70 tuồng cải lương, 2000 bài vọng cổ nhưng quan trọng hơn, ông để lại tình yêu con người, yêu đất nước vô bờ bến mà không cần lên gân dạy đời. Nghe câu trăn trối của ông với con trai là hiểu: “Khi ba chết, nhớ bỏ theo quan tài ba một mớ giấy bút để xuống đó ba viết tiếp bài ca vọng cổ”.
Nửa đêm nhớ ông … “Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi… Đường dài mịt mùng”
Kim Hạnh
Thế Giới Tiếp Thị
Soạn giả – NSND Viễn Châu qua đời lúc 13h15 trưa 1/2 tại tư gia, hưởng thọ 92 tuổi. Soạn giả Viễn Châu sinh năm 1924 tại Trà Cú, Trà Vinh, tên thật Huỳnh Trí Bá. Ông được xem là ông vua vọng cổ, tính tới nay đã sáng tác khoảng 4.000 bài vọng cổ và hơn 70 kịch bản cải lương. 9h ngày 2/2, linh cữu của ông được đưa sang Nhà tang lễ Thành phố. Lễ động quan diễn ra sáng ngày 4/2, sau đó hỏa thiêu tại Bình Hưng Hòa.
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này