08:47 - 20/01/2017
KTS Hoàng Thúc Hào: Kiến trúc là làm ra sự ‘ngạc nhiên bền vững’
Ngôi nhà, rồi cộng đồng là số phận của đời người, là sự song hành giữa xưa và nay…
– Thường mỗi thời điểm khác nhau, người ta chọn cho mình một bến bờ khác, vì sao anh vẫn nhất quán với riêng mình trong con đường kiến trúc hạnh phúc?
– Kiến trúc sư chỉ có thể hạnh phúc bền vững khi theo đuổi đến cùng mục tiêu vì con người, vì tương lai văn hoá của vùng đất ấy. Con đường ấy bắt nguồn từ những năm tháng sinh viên, khi lần đầu tiên tôi đưa ảnh hưởng xã hội, văn hoá, lịch sử của kiến trúc vào quy hoạch cải tạo làng gốm Bát Tràng năm 1990. Lúc ấy tỷ lệ mắc bệnh ho lao, ung thư của làng cao nhất thời điểm ấy, phải làm sao cân bằng sinh thái và bảo tồn giá trị truyền thống, để người dân sống được trong hiện tại bằng tổ hợp kiến trúc. Năm 1994, tôi đã nghĩ ra giải pháp “Trả lại cho đất những gì của đất” từ quy hoạch làng gốm Bát Tràng, làm ra môi trường trong lành, tiết kiệm năng lượng vừa giữ được cổ vừa làm mới một ngôi làng nằm trong lòng đô thị Hà Nội.
Hồi đó người ta đổ hết xỉ thải nung gốm bằng than xuống ao hồ, lấp hết diện tích mặt nước. Nhiên liệu thừa của lò trong các hộ dân rất lớn, làm sao tận dụng nhiên liệu thừa ấy? Phải nâng ống khói cao lên, tính lại cấu trúc nung lò để làm sao cho nhiệt đốt hết… Mỗi nhà có bí quyết nung gốm khác nhau, từng lò riêng nhưng chung ống khói, trả lại mặt nước, đào con kênh mắt rồng thông với sông Hồng, đưa nước vào cải thiện môi trường, khí hậu… Đồ án được giải thưởng Kiến trúc quốc tế Sofia 1994.
Năm 1996, tôi theo đuổi quy hoạch biến nhà tù Hoả Lò thành Quảng trường khoan dung, và đã đạt giải thưởng của hội Kiến trúc sư quốc tế UIA – Paris. Thế kỷ 21 nhưng trong lòng đô thị vẫn tồn tại một hoả lò, xung quanh trường học, chùa, đại sứ quán… không đồng nhất về đô thị và văn hoá. Biến nó thành không gian của hoà bình, của nghệ thuật sắp đặt bằng chính những bức tường ấy. Quá khứ đau thương chỉ phản chiếu trên mặt nước… Tiếp theo là quy hoạch Hồ Gươm, biến thành chuỗi không gian cộng đồng liên hoàn cho người dân cả nước.
– Anh có thể cho biết rõ hơn về cảm xúc và ý tưởng cho những công trình tiêu biểu đã đi vào lòng người như Nhà cộng đồng Suối Rè, Ngôi trường đẹp như đoá hoa ở Lũng Luông, Nhà cộng đồng xã Cẩm Thanh… Những yếu tố địa phương nào đã giúp anh tạo nên sự “ngạc nhiên bền vững”?
– Sau rất nhiều giải thưởng, chúng tôi muốn làm những công trình thật. Kiến trúc thành tác phẩm phải tốn tiền tỉ, làm sao chọn phương án nhỏ, rẻ tiền, mình tự quyết hoàn toàn?
Sẵn có mảnh đất của riêng mình để không ba năm nay ở Suối Rè, tôi muốn đi về phía nông thôn, vì nông thôn nắm giữ văn hoá Việt. Mảnh đất nằm trên lưng chừng núi, xung quanh là rặng tre, tầm nhìn đẹp, nơi người Mường chung sống với người Kinh hàng trăm năm nay, hội tụ đủ yếu tố thử nghiệm kiến trúc xã hội, văn hoá, thế đất, vật liệu thú vị.
Tìm hiểu xã đó mới thấy cần làm công trình cộng đồng, dễ có tính biểu tượng, hiện đại. Làm thử nghiệm ở nông thôn có nhiều vật liệu hữu cơ đúng với phát triển bền vững. Dân mình làm nhà cộng đồng người ta chỉ đến sinh hoạt thôi, với Suối Rè, tôi muốn chuyển lớp mẫu giáo về đấy. Mảnh đất nằm trên lưng chừng núi, cao ráo, tầm nhìn mát mẻ, có cả cái sân đất chơi bóng chuyền, vì phụ nữ ở đây chơi bóng chuyền rất giỏi. Sắp tới ở đây còn có xưởng thủ công làm giấy dó, thỉnh thoảng các trường đại học lên làm hội thảo… Tôi đóng vai kết nối trung gian giữa vùng đó với những nguồn lực đô thị, những nhà hảo tâm tham gia vào hoạt động cộng đồng.
Với Lũng Luông, tôi muốn làm một ngôi trường tương đối điển hình cho những vùng nghèo, vùng xa. Dự án thú vị, đầy cảm hứng, vừa đủ tiện nghi, ấm về đông, mát về hè, có chỗ ở lại cho các cháu nội trú, nơi phát triển thêm những kỹ năng sống khác. Dự án gợi ý về kiến trúc bền vững bằng vật liệu địa phương. Loay hoay 7 – 8 tháng, chúng tôi đã thử nghiệm thành công viên gạch bằng đất tại chỗ kết hợp với phụ gia và máy móc. Đất đồi hoang hoá ở đây có chất thép rất lý tưởng để làm gạch. Cũng có người cho rằng dùng nhiều màu trên mái như vậy có ăn vào với núi rừng không? Tôi thấy các đồng bào dân tộc ăn mặc xanh đỏ tím vàng hàng ngàn năm nay có vấn đề gì đâu! Vào ngày đông lạnh, mái trường như những bông hoa rừng sưởi ấm các cháu. Người dân tộc thích màu sắc rực rỡ, đường đến trường từ núi cao đổ xuống, ở bất cứ góc nào các em cũng có thể nhìn thấy mái trường rực rỡ thân yêu…
Nhà cộng đồng Cẩm Thanh lại kế thừa bản sắc nhà cổ Hội An, đổi mới một hệ thống sân trong, trộn lẫn vào nhau, kết hợp những giàn cau Hội An, trộn lẫn giữa đô thị và nông thôn. Gạch không nung và mái lá dừa thích hợp vùng nắng nóng, có bóng râm, tránh được bão, nhiệt độ trong nhà lúc nào cũng mát hơn ngoài trời 4 – 5 độ nhờ bóng râm có góc đối lưu tạo ra áp suất âm…
Do công việc cứ cuốn đi, đến mỗi vùng đất mới tôi đều cảm thấy thú vị. Tôi không thích làm những kiến trúc hiện đại, kế thừa truyền thống với tôi là lạ mà quen, bất ngờ nhưng bền vững, đó là gợi ý hay cho kiến trúc vùng miền có bản sắc. Bối cảnh khác, văn hoá khác, kiến trúc phải khác, không lặp lại.
– Nguyên lý kiến trúc nào anh coi trọng nhất, và coi đó như xu hướng của tương lai?
– Bản thân cốt lõi nhất của một công trình là làm ra sự “ngạc nhiên bền vững”. Ngạc nhiên hay gắn với tức thời, sốc, nhưng cũng có những ngạc nhiên chậm. Bạn phải biết người ta 10 – 20 năm mới đánh giá được họ kiên nhẫn đến ngạc nhiên, tinh thần dẻo dai đáng ngạc nhiên. Kiến trúc cũng vậy, những làng cổ, phố cổ châu Âu hàng trăm năm nay vẫn đẹp đến ngạc nhiên. Muốn tạo lên một kiến trúc truyền thống mới, phải tạo nên ngạc nhiên bền vững. Phương pháp nào để làm được điều đó? Phương pháp cốt lõi 1 + 1 > 2, luôn tích hợp, trộn vào, giải quyết thoả đáng giữa tri thức hàn lâm với những giá trị văn hoá bản địa cốt lõi, để tương lai văn hoá của vùng đất ấy sẽ đổi mới trên bản địa vùng đất ấy. Nếu không sẽ đẻ ra những đô thị phi nhân tính.
Trong thư đề cử trao giải SIA – GETZ cho KTS Hoàng Thúc Hào, TS Nirmail Kishnani, chuyên gia về kiến trúc xanh, giảng viên cao cấp tại khoa Kiến trúc, ĐH Quốc gia Singapore, Tổng biên tập tạp chí Future Arc, viết:
“Đồ án nhà cộng đồng Suối Rè của Hoàng Thúc Hào là một ví dụ thực tiễn trong cuốn sách Xanh hoá châu Á (Greening Asia) phát hành năm 2012 của tôi. Tôi chọn công trình này bởi sự nhạy cảm của nó với khí hậu và cộng đồng, điều tôi nhận thấy rất có ý nghĩa trong bối cảnh của Việt Nam. Khuynh hướng bản địa của nó không chỉ thể hiện sự hoài cổ; mà lồng vào đó là những cách làm mới mẻ và nâng tầm, gây được sự chú ý đối với nông thôn đang bị lãng quên (trong bối cảnh thành thị luôn là trung tâm của mọi sự chú ý)…
“… Ngôn ngữ thiết kế của anh giản dị nhưng luôn ẩn chứa sự cách tân về công nghệ và kỹ thuật, nâng cao giá trị trải nghiệm trong mỗi công trình. Anh đã hợp nhất ý tưởng về hình thức và sự gắn kết với cộng đồng thành luận điểm “kiến trúc hạnh phúc”, được coi là nguyên lý cốt lõi trong các thực hành kiến trúc của anh: Vì hạnh phúc của con người…”
Mai Phương thực hiện
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này