10:37 - 16/02/2016
Trần Quang Triều người gìn giữ ngôi chùa tâm linh của quê hương
Trong lòng Trần Quang Triều như bỗng dâng trào lên một niềm xót xa vô hạn trước bao nhiêu tang thương dâu bể của cuộc đời:
Ngôi chùa của triều đại trước lẫn giữa đám cỏ hoang
Bãi chiến trường xưa đang phơi mình trước gió thu.
Tấm bia Tàu chìm trong mưa chiều,
Pho tượng Phật cổ nằm phơi bóng xế
Tấm áo mây, đã cất trong ngôi nhà đá
Mùi hương đồng nội dâng lên đài hoa
Ứng thân không có chỗ nhất định
Với đời cùng hưng vong[1].
(Mai thôn phế tự)
Đọc bài thơ, ta có cảm tưởng như trong trái tim của Trần Quang Triều không phải chỉ có một buổi chiều thôi, mà dường như trong ông đang chất chứa cả một vạn buổi chiều.
Nhưng Trần Quang Triều là một phật tử, nên ta thấy ông chỉ ngậm ngùi và thương cảm trước cuộc dâu bể thôi chứ không hề hoảng hốt sợ hãi.
Vì Trần Quang Triều ý thức rất rõ rằng, có một cái đẹp vĩnh cửu, một cái đẹp không tàn phai, sau cái đẹp mong manh thoáng chốc của thời gian hữu hạn:
Ứng thân không có chỗ nhất định
Với đời cùng hưng vong.
Tuy biết vậy, nhưng bởi lỡ mang trái tim đa cảm, nên những buổi chiều như sầu vạn thuở ấy cứ tiếp tục ám ảnh mãi trong những bài thơ của Trần Quang Triều:
Sông núi rốt cuộc vẫn còn mà nước cũ đã đổi khác
Mấy hàng bách trồng trên gò đứng phơi lưng dưới nắng chiều
Khí đế vương triều xưa vùi dưới cỏ mùa thu,
Mưa chiều hiu hắt bướm nội bay[2].
(Trường An hoài cổ)
Trần Quang Triều sinh năm 1286, là con cả của Trần Quốc Tảng và là cháu nội của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Vậy là đối với Trần Quang Triều thì những chiến thắng của Đông Bộ Đầu vào thời kỳ đánh đuổi quân Nguyên lần thứ nhất (1258) dưới thời Trần Thái Tông và tiếp đến những Tây Kết, Chương Dương, Bạch Đằng vào những năm 1285 và 1288 dưới thời Trần Nhân Tông đã chỉ còn là vang bóng của một thời.
Nghĩa là nhà Trần dưới thời của Trần Anh Tông hay Trần Minh Tông mà Trần Quang Triều đang phục vụ tất nhiên đã không còn hùng mạnh nữa như dưới thời Trần Thái Tông, Thánh Tông và nhất là Trần Nhân Tông.
Nhưng với cái nhìn của thi nhân, thì không phải đợi đến khi nhìn thấy triều đại mình đang phục vụ bắt đầu suy tàn thì họ mới xót xa cho lẽ hưng vong của cuộc đời, mà trong họ mỗi một ngày trôi qua hay thậm chí đến cả một giây phút bâng quơ nào đó khi bất chợt nhìn thấy một hòn đá nằm chơ vơ dưới nắng chiều hiu hắt bên đường, thì trong họ dường như đã cảm nhận được nỗi đời hư ảo rồi:
Trước cửa quán hòn đá chởm nằm trơ trong nắng chiều
Ngắm sự đời, như nước chảy trôi đi và đi mất, thấy mà đau.
(Tô Đông Pha)
Tất nhiên bao giờ tiếng thơ của thi nhân cũng phản ảnh niềm đau khổ chung cũng như riêng đối với thời đại mà thi nhân đang sống.
Tuy nhiên, không phải vì vậy mà ta cứ bảo là Trần Quang Triều làm thơ để dự báo (hay thương cảm) cho nhà Trần của mình sắp suy vong, hoặc Nguyễn Du làm thơ là để thương tiếc cho nhà Lê đã mất (hoài Lê).
Nếu chúng ta cứ tiếp tục đem cái nhìn có tính cách trường ốc như vậy để giải thích thi ca thì chắc chắn chúng ta đã đánh mất không những hồn thơ mênh mông không chỉ riêng của Trần Quang Triều hay Nguyễn Du không thôi, mà chúng ta còn bóp chết biết bao tâm hồn thơ mộng nữa.
Trần Tử Ngang, một thi hào đời Đường của Trung Quốc đã bày tỏ về quan điểm thi ca của ông: “Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ không phải để phấn đấu cho tài ba trong nhất thời”.
Dù rất được nhà Trần ưu đãi, mới có 14 tuổi đã được phong tước Văn Huệ Vương, lớn lên lại có công dẹp loạn Thích Na. Thế nhưng Trần Quang Triều không bao giờ lấy đó làm thoả mãn, mà ngược lại Trần Quang Triều còn khinh bỉ thứ lợi danh bọt bèo này nữa, thứ lợi danh mà biết bao con người tầm thường thèm muốn, nhưng chẳng bao giờ họ vói tới được:
Sóng cá dồn nước triều lên dòng thác biếc
Tiếng mái chèo đưa hơi lạnh vào mây xanh
Đã bao lần coi nhẹ miếng mồi treo chuông vạc
Mồi ấy đâu có nặng bằng chiếc cần câu bên sông Đống[3].
(Điếu tẩu)
Vì mang một tâm hồn như vậy, nên ta không lấy gì làm ngạc nhiên, khi thấy Trần Quang Triều luôn luôn cô độc giữa đám đông con người:
Nghĩ đến những cuộc gặp gỡ giả dối lòng càng coi nhẹ[4].
Vì vậy:
Cho nên giấc mộng trở về cứ vương vấn mãi[5].
Nhưng có gì khác nhau giữa sự “trở về” của Trần Quang Triều và việc đi ở ẩn của các nhà Nho? Chắc phải có sự khác nhau. Như thế này: việc rút lui hoặc đi ở ẩn chỉ xảy ra khi nào họ cảm thấy thất bại trên con đường công danh sự nghiệp, hoặc không thực hiện được hoài bão của mình cho dân cho nước.
Còn “trở về” có nghĩa là nhận thấy con đường mình đang đi không thích hợp với tâm hồn của mình. Vì nói cho cùng, thì có nhiều con đường để phục vụ cho quê hương đất nước, chứ không nhất thiết phải ra làm quan thì mới có thể thực hiện được lý tưởng ấy.
Và Trần Quang Triều đã lựa chọn con đường khác để phục vụ cho đất nước mà mình đang sống, mảnh đất mà ông đã yêu đến tha thiết vì theo ông nó có một vẻ đẹp rất đơn sơ và giản dị, giản dị đến nỗi mà cũng theo nhà thơ khó có một hoạ sĩ tài hoa nào có thể đưa được phong cảnh ấy vào bức tranh của mình:
Phong cảnh nước Nam khó có thể đưa vào trong tranh vẽ
Trong ao bên quán Tân An cỏ năn, cỏ lác mọc
Hàng năm thâu lượm cảnh trăng gió thảnh thơi
Ngoài rặng trúc, một tiếng chim đa đa kêu[6].
(Liêu Nguyên Long Tống hoạ cảnh phiến)
Nơi mà Trần Quang Triều muốn trở về ấy có phải là ngôi chùa chăng?
Sách Tam Tổ Thực Lục cho biết, tháng chạp năm 1317 khi bắt đầu tu tạo lại chùa Quỳnh Lâm. Văn Huệ Vương Trần Quang Triều đã làm thí chủ và cúng 4.000 tiền, bia chùa Quỳnh Lâm thì chép số tiền này lên đến 40 vạn quan.
Rồi đến tháng chạp năm 1324, lại cũng sách Tam Tổ Thực Lục lại ghi thêm: Trần Quang Triều còn cúng 300 mẫu ruộng ở Gia Lâm, cùng số ruộng ở hai trang trại Động Gia và An Lưu, tổng cộng hơn 1.000 mẫu, và hơn 1.000 nô tỳ để làm của Tam Bảo vĩnh viễn cho chùa Quỳnh Lâm.
Xưa nay thường chỉ có giới vua chúa và quý tộc hay những người giàu có mới bỏ tiền ra để xây dựng chùa chiền, vậy mà Trần Quang Triều, một trí thức và một nhà thơ lớn đương thời đã bỏ cả gia sản ra để xây dựng chùa Quỳnh Lâm, thì ta có thể thấy tấm lòng của ông tha thiết cho nơi chốn mà ông muốn trở về ấy biết chừng nào!
Là một nhà trí thức lớn của thời đại, nên tất nhiên Trần Quang Triều ý thức rất rõ vị trí của ngôi chùa trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Vì chẳng phải ngôi chùa đã đứng ra hướng dẫn dân tộc trong những ngày đầu mở nước, nên ngay khi Lý Nam Đế (544 – 548) lên ngôi, đã lập lên ngôi chùa có tên là chùa Mở Nước (Khai Quốc, tức chùa Trấn Quốc ngày nay đó sao?)
Và cũng chính từ ngôi chùa mà sau hơn 1.000 năm lệ thuộc bị xem như “man di”, thì lần đầu tiên một nhà trí thức hàng đầu của “Thiên triều” đã phải thừa nhận công khai rằng, Thiên tử của nước Đại Việt cũng chẳng khác gì Thiên tử của nước họ qua hai câu thơ của sứ Tống Lý Giác:
Ngoài trời lại có trời soi rạng
Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.
Giả sử nếu không có Khuông Việt thiền sư chùa Cát Lợi và Pháp Thuận của chùa Cổ Sơn thì biết đến bao giờ dân tộc mới ngẩng đầu lên được như vậy?
[…]
Còn Trần Quang Triều? Ông đã đến nơi mà suốt cả đời ông vẫn khao khát trở về đó chưa?
Lòng nguội lạnh với giấc mơ sừng con sên
Dạo bước đến cửa Thiền.
Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh,
Rừng sâu, tiếng ve ngân dài
Mưa tạnh, trời xanh biếc một màu
Ao trong, trăng mát dịu toả xuống.
Khách ra về, Sư chẳng nói
Mặt đất thơm ngát mùi hoa thông.
(Đề Gia Lâm tự)
Vậy là Trần Quang Triều đã đến nơi mà suốt cả đời ông vẫn khát khao trở về đó rồi! Vì suốt cả bài thơ, ta nghe ra được một niềm vui như bất tận của Trần Quang Triều.
Dù nơi này, đất và trời vẫn vắng lặng và tịch mịch như tự bao giờ (khách khứ tăng vô ngữ) nhưng trước mắt là một màu xanh ngắt (thiên nhất bích), và mặt đất dưới bước chân người vừa mới trở về dường như thơm ngát một mùi hương (tùng hoa mãn địa hương).
Thích Phước An (Theo Thế Giới Tiếp Thị)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này