08:54 - 02/11/2021
Đề xuất gói phục hồi kinh tế 800.000 tỷ đồng
Bộ Kế hoạch – Đầu tư vừa trình Chính phủ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh Covid-19 với quy mô khoảng 800.000 tỷ đồng (gần 35 tỷ USD), gấp 3,5 lần gói hỗ trợ của Chính phủ năm 2021.
Theo Bộ Kế hoạch – Đầu tư (KH-ĐT), dịch bệnh Covid-19 kéo dài, tác động nặng nề, toàn diện đến hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các nước đã triển khai nhiều gói hỗ trợ quy mô lớn như Mỹ là 27,9% GDP, Nhật Bản 44,8% GDP, Thái Lan 15,6% GDP, Malaysia 8,8% GDP, Trung Quốc 6,1% GDP.
Những gói hỗ trợ đó chưa từng có tiền lệ, chấp nhận tăng trần nợ công, nợ Chính phủ… để có nguồn lực thực hiện phòng, chống dịch bệnh, chống suy thoái, phục hồi kinh tế, đồng thời tận dụng cơ hội để giải quyết những hạn chế, thách thức, cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển các động lực tăng trưởng mới.
Trong nước, mặc dù Chính phủ đã rất cố gắng, nỗ lực huy động mọi nguồn lực hỗ trợ người dân, doanh nghiệp (DN) vượt qua khó khăn của dịch bệnh nhưng quy mô các chính sách hỗ trợ còn tương đối thấp, năm 2021 ước khoảng 10,5 tỷ USD, tương đương 2,85% GDP, chủ yếu tác động về phía cung, chưa thực sự hỗ trợ mạnh mẽ cho người dân, DN; chưa có giải pháp tổng thể cùng với nguồn lực để thúc đẩy phục hồi đồng bộ cả về phía cung và cầu của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nếu không có chính sách hỗ trợ kịp thời với quy mô đủ lớn, thời gian đủ dài, phạm vi đủ rộng, nền kinh tế không thể sớm phục hồi và tăng trưởng, sẽ tác động đến ngân sách nhà nước, thị trường tài chính, tiền tệ, lao động, việc làm, xã hội…; bỏ lỡ các cơ hội mới, thời cơ mới trong chuỗi sản xuất, kinh doanh, đầu tư, thương mại toàn cầu và thích ứng, phát triển với tương lai sau dịch bệnh. Từ đó, ảnh hưởng đến thực hiện các mục tiêu hằng năm, 5 năm, 10 năm, nguy cơ tụt hậu so với khu vực và thế giới… Do vậy, việc xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh Covid-19 (gọi tắt Chương trình) hiện nay hết sức phù hợp và cấp thiết nhằm tập trung hỗ trợ nền kinh tế sớm vượt qua khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển, sớm trở lại trạng thái bình thường mới, không lỡ nhịp xu thế phục hồi và phát triển của thế giới.
Chương trình này được thực hiện giai đoạn 2022 – 2023 bao gồm 4 chương trình thành phần, gồm Chương trình tổng thể mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch bệnh Covid-19; Chương trình an sinh xã hội và việc làm; Chương trình phục hồi DN, hợp tác xã, hộ kinh doanh; Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển.
Theo Bộ KH-ĐT, dự kiến nguồn lực thực hiện chương trình khoảng 800.000 tỷ đồng (khoảng 35 tỷ USD). Việc huy động vốn được thực hiện theo tiến độ thực hiện, giải ngân của từng chương trình thành phần, nhiệm vụ chi cụ thể. Các nguồn huy động ngân sách nhà nước chủ yếu bao gồm nguồn tiết kiệm chi thường xuyên; nguồn phát hành trái phiếu chính phủ; các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và Quỹ dự trữ ngoại hối trong trường hợp cần thiết; nguồn vay các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)…
Chấp nhận bội chi ngân sách cao hơn
Đánh giá về tác động của chương trình nêu trên, Bộ KH-ĐT cho rằng khi thực hiện thì tăng trưởng kinh tế 5 năm 2021 – 2025 dự báo đạt khoảng 6,4 – 6,8%/năm, cao hơn khoảng 1 điểm % so với kịch bản không thực hiện, cơ bản đạt mục tiêu đề ra (6,5 – 7%/năm). Việc huy động các nguồn lực thực hiện làm nợ công tăng lên nhưng vẫn trong phạm vi kiểm soát. Quy mô nợ công theo các kịch bản khoảng 47% năm 2022 và 49% năm 2023.
Chuyên gia kinh tế, TS Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, đánh giá đây là một chương trình phục hồi và phát triển kinh tế đủ lớn và thời gian đủ dài cần để triển khai. Bản thảo của Bộ KH-ĐT hội đủ các yếu tố trên, nhắm vào các lĩnh vực đáng quan tâm nhất, không chỉ hỗ trợ người lao động, cộng đồng DN vượt qua những khó khăn hiện tại mà còn thúc đẩy cải cách thể chế để bắt kịp nền móng cho bước phát triển tiếp theo. Ông Thành tính toán, với Chương trình 800.000 tỷ đồng, tương đương gần 35 tỷ USD kéo dài trong 2 năm, tương đương khoảng 9 – 10% GDP hằng năm thì có thể chấp nhận thâm hụt ngân sách cao hơn. Tuy nhiên, chương trình có đánh giá rủi ro và tập trung quản trị rủi ro để đảm bảo khả năng chống đỡ của nền kinh tế trước khủng hoảng, nên cho dù có thâm hụt thì kinh tế vĩ mô vẫn bảo đảm ổn định trong trung hạn.
Chuyên gia kinh tế, TS Trần Du Lịch nhận định Chương trình này không chỉ để giúp phục hồi kinh tế mà phải gắn với việc chuyển đổi nhanh, xây dựng một nền kinh tế tự chủ trong bối cảnh mới. Trong đó, phải phát huy được vai trò của các DN trong nước và gắn kết với khối DN có vốn đầu tư nước ngoài, tận dụng các cơ hội từ những hiệp định thương mại song phương, đa phương mà VN đã tham gia. TS Lịch nhấn mạnh: tình hình hiện nay đòi hỏi phải có nguồn lực mạnh hơn giai đoạn trước từ nhà nước để hỗ trợ cho cả DN lẫn người dân đã gặp khó khăn vì đại dịch. Chẳng hạn, chính sách an sinh xã hội vẫn phải trợ cấp, đảm bảo đời sống cho những người nghèo, người yếu thế ít nhất đến hết tháng 6/2022 cũng như liên quan đến các công việc đào tạo, tìm việc làm. Do đó, Chính phủ phải chấp nhận bội chi ngân sách trong 2 năm 2022 – 2023 cao hơn mức gần 4% của năm 2021 mà Quốc hội đã phê duyệt. Từ đó cũng phải chấp nhận tăng trần nợ công nếu cần thiết. Song song đó, Chính phủ cần tiếp tục cải cách môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính để thu hút mạnh hơn đầu tư tư nhân. Nâng cao hiệu quả hành chính công, quản trị công theo nguyên tắc cung cấp dịch vụ hành chính công là trách nhiệm, chứ không phải xin – cho. Cải thiện môi trường đầu tư để kích cầu đầu tư tư nhân sau khi nhà nước đã đầu tư công như vốn mồi cho kinh tế phát triển.
Lo ngại năng lực thực thi
TS Phùng Đức Tùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Mekong, đánh giá đây là chương trình hỗ trợ lớn nhất từ trước đến nay, thể hiện quyết tâm, tham vọng của Chính phủ trong phục hồi kinh tế. Tuy vậy, chuyên gia này nói thẳng: Lo ngại nhất là năng lực thực hiện. Cụ thể, trong tờ trình của Bộ KH-ĐT cũng đặt các giả thiết và quản trị rủi ro về mặt vĩ mô thế nào, song năng lực bộ máy triển khai các gói hỗ trợ “có vấn đề”.
Ông Tùng dẫn chứng, ngay gói an sinh vừa rồi cũng bị manh mún, nơi thừa, nơi thiếu, thiếu tính khoa học… Tất cả do chúng ta thiếu cách tổ chức có hệ thống và số hóa. Hoặc giả sử đầu tư hạ tầng, đa số các dự án bị vướng, kéo dài, chậm giải ngân từ năm này sang năm khác. Như vậy, với chương trình đồ sộ này, áp lực lớn nhất là phải triển khai nhanh, minh bạch, đúng đối tượng… theo kỳ vọng đặt ra, liệu năng lực bộ máy thực thi có làm nổi? Chẳng hạn, chương trình đưa ra quy định chính các cấp, các ngành thường xuyên theo dõi, đánh giá, điều chỉnh chính sách phù hợp; huy động sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp (DN), tổ chức chính trị, xã hội, DN, doanh nhân, người dân tham gia giám sát; kiểm tra…
Thực tế, quy định này không mới nhưng trong thực tế xử lý đến đâu và như thế nào khi cấp cơ sở làm sai thì như… muối bỏ biển. “Theo tôi, muốn giảm bớt sai phạm, nên số hóa các giao dịch, qua các công cụ điện tử hóa thì hay hơn phát triển từng nhà, tránh phát sinh rủi ro cao nhất”, ông Tùng nói.
Ngoài ra, theo ông Tùng, tham vọng của Chính phủ là phục hồi kinh tế trong 2 năm tới. Trước chúng ta, các nước đã triển khai những chương trình lớn thế này. VN đi sau, muốn về đích như các nước và hiệu quả thì ngoài bộ máy thực thi tinh nhuệ, chúng ta cần những quy định pháp luật ngoại lệ để triển khai.
Trong đại dịch, DN nhỏ và vừa bị ảnh hưởng lớn nhất, đặc biệt khu vực DN trong lĩnh vực du lịch giải trí, vậy các gói giải ngân hỗ trợ lãi suất nên ưu tiên cho khối DN này, tránh chảy vào những DN không hoặc ít bị ảnh hưởng. Với các dự án hạ tầng, giải ngân nhanh là cần thiết, cũng phải có quy định riêng. Muốn vậy, Chính phủ nên đưa ra Quốc hội chương trình thực hiện và cách thức thực hiện như ngoại lệ, không tuân theo những quy định có sẵn gây khó, cản trở cho việc thực thi.
“Tôi nhấn mạnh là các dự án liên quan hạ tầng, hỗ trợ người lao động và DN nên áp dụng, đối chiếu qua app, tiền hỗ trợ 2 triệu đồng cho người dân mua sắm tết, có thể chảy thẳng vào tài khoản cho dân, bỏ ngay việc qua tầng quận, phường, khu phố, tổ dân phố. Thực tế phát hỗ trợ qua nhiều tầng tầng lớp lớp trong thời gian qua đã phát sinh nhiều tiêu cực đáng buồn mà chúng ta đã biết”, ông Tùng đề nghị.
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này