10:18 - 09/04/2020
Covid-19 sẽ thay đổi cách tiêu dùng và làm việc
Mỗi cú sốc về kinh tế đều để lại hậu quả lâu dài. Với virus corona chết người cũng sẽ vậy.
Tình trạng đình trệ ở quy mô lớn đã tạo ra thái độ “lãng phí không mong muốn”, gây ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng trong nhiều thập kỷ. Siêu lạm phát ở Cộng hoà Weimar vẫn gây ám ảnh chính sách của Đức.
Làm việc tại gia, giáo dục trực tuyến
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á khiến khu vực tích trữ lượng ngoại hối lớn nhất thế giới. Gần đây hơn, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã thúc đẩy một nền dân chủ vững mạnh hơn, với những người lao động phải chịu mức lương thảm hại trong thời gian dài.
Dịch bệnh lần này đã gây rung chuyển nền kinh tế thế giới. Chỉ trong vài tuần, người dân ở khắp các khu vực bị ảnh hưởng đã quen với việc đeo mặt nạ, dự trữ các nhu yếu phẩm, huỷ bỏ các cuộc họp mặt xã hội và kinh doanh, huỷ bỏ kế hoạch du lịch và làm việc tại nhà. Ngay cả các quốc gia có số lượng các ca nhiễm thấp cũng đang thực hiện nhiều biện pháp phòng ngừa.
Những thói quen như vậy chắc chắn sẽ còn kéo dài ngay cả sau khi dịch bệnh đã được khống chế. Về phía cung, các nhà sản xuất quốc tế đang buộc phải suy nghĩ lại về nơi mua và sản xuất hàng hoá của họ – đẩy nhanh sự chuyển đổi sau khi cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ – Trung Quốc bộc lộ những rủi ro khi chỉ dựa vào một nguồn cung ứng thành phẩm.
Các doanh nghiệp và tổ chức khắp nơi trên thế giới cũng đã cho phép nhân viên làm việc từ xa, mở ra một kỷ nguyên mới với xu hướng làm việc tại nhà ngày càng tăng.
Karen Harris, giám đốc điều hành của Bain’s Macro Trends Group tại New York cho biết, một khi các chính sách làm việc tại nhà vẫn đảm bảo được hiệu quả, công ty sẽ gắn bó với mô hình này lâu dài.
Tình hình hiện nay cũng đặt các trường đại học vào hoàn cảnh phải đa dạng hoá cơ sở sinh viên nước ngoài của mình và nâng cấp hạ tầng để tăng cường giáo dục trực tuyến.
Cơ cấu lại sản xuất
Ngành du lịch đang trải qua những cú sốc mạnh nhất, với các chuyến bay, tàu du lịch trên biển, khách sạn và mạng lưới các doanh nghiệp du lịch đang gặp khó khăn. Mặc dù khách du lịch chắc chắn sẽ háo hức khám phá thế giới và thư giãn trên bãi biển một lần nữa, nhưng có thể sẽ mất một thời gian dài trước khi ngành công nghiệp này hồi phục.
Virus cũng đã tác động đến triển vọng chính sách kinh tế và tạo ra các ưu tiên mới. Các ngân hàng trung ương đang phải đối mặt với tình trạng khẩn cấp một lần nữa, trong khi các chính phủ đang nỗ lực hỗ trợ các lĩnh vực đang gặp khó khăn. Vấn đề đảm bảo vệ sinh cũng đang được siết chặt tại các chương trình nghị sự của chính phủ và doanh nghiệp.
Kazuo Momma, người từng phụ trách chính sách tiền tệ tại Bank of Japan, cho biết đại dịch lần này là chưa từng có và gây tác động trầm trọng đến kinh tế và xã hội. Cũng theo Momma, các biện pháp kiểm soát biên giới cũng được siết chặt hơn, phạm vi bảo hiểm rộng hơn và các thay đổi về mô hình làm việc hay cách thức đi lại cũng sẽ tồn tại rất lâu sau khi dịch được khống chế.
Tại Trung Quốc, nơi virus bùng phát lần đầu tiên ở Vũ Hán vào cuối năm ngoái, cơ quan lập pháp đã áp đặt lệnh cấm hoàn toàn đối với buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã, trong bối cảnh các nhà khoa học cảnh báo rằng virus corona lây lan từ động vật sang người. Các quy tắc vệ sinh nghiêm ngặt khác cũng thúc đẩy người tiêu dùng hướng đến mua sắm trực tuyến, tương tự như cách dịch SARS năm 2003 đã làm thay đổi thói quen mua sắm khi mọi người tránh đến các trung tâm thương mại.
Phân tích của Bain & Company cho thấy Trung Quốc sẽ chứng kiến những thay đổi rõ rệt trong việc chăm sóc sức khoẻ, khi ngày càng có nhiều kiểm tra và giao dịch được thực hiện thông qua các kênh trực tuyến, để tránh nguy cơ lây nhiễm.
Theo một bài báo mới về tác động kinh tế vĩ mô của virus do viện Brookings và đồng tác giả là Warwick McKibbin và Roshen Fernando của đại học Quốc gia Úc, chính phủ có thể chi nhiều hơn cho chăm sóc sức khoẻ. Cộng đồng toàn cầu lẽ ra đã đầu tư rất nhiều vào việc phòng ngừa ở các nước nghèo, theo ông McKibbin. Ông cũng là đồng tác giả của một bài báo trước đó ước tính đại dịch SARS năm 2003 đã thổi bay 40 tỷ đô la khỏi nền kinh tế thế giới.
Bởi vì không ai dám chắc virus sẽ phát sinh như thế nào hoặc các thiệt hại về kinh tế và con người cuối cùng sẽ là bao nhiêu, các nhà kinh tế thận trọng trước những dự đoán cụ thể. Theo Edmund Phelps của đại học Columbia, có thể phần lớn sự gián đoạn sẽ trở lại hoạt động bình thường một khi dịch bệnh được kiểm soát tốt. “Tôi nghĩ rằng hầu hết các doanh nghiệp và chắc chắn những người khổng lồ ở Hoa Kỳ và những nơi khác sẽ không quay trở lại các hoạt động kinh doanh thông thường”, ông nói.
Các nhà kinh tế như Paul Sheard, một thành viên cao cấp tại trường Kennedy của đại học Harvard, cũng cảnh báo rằng, vì không có cú sốc kinh tế nào giống nhau, nên không ai dám chắc đại dịch lần này sẽ để lại những gì.
Fabrizio Pagani, cựu cố vấn của Thủ tướng Ý, đã đưa ra những dẫn chứng từ các đợt suy thoái kinh tế trước. “Cuộc khủng hoảng dầu trong thập niên 1970 đã dẫn đến những nỗ lực đầu tiên về bảo tồn năng lượng”, ông nói. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng là lý do căn bản cho một khung pháp lý mới, khá triệt để trong các lĩnh vực tài chính và ngân hàng. Lần này, ông hy vọng mọi thứ sẽ thay đổi, từ học trực tuyến và học từ xa, đến chiến lược công nghiệp khi các mô hình kinh doanh hiện tại được cơ cấu lại.
Tác động ba chiều từ Brexit, cuộc chiến thương mại của Hoa Kỳ và giờ là Covid-19, có thể định hình lại chuỗi cung ứng sản xuất thế giới, theo Michael Murphree, thuộc đại học Kinh doanh Nam Carolina.
Kathryn Judge, một chuyên gia về thị trường tài chính và điều tiết tại đại học Columbia, nói rằng vụ sụp đổ ngân hàng năm 2008 của Hoa Kỳ đã để lại những vết sẹo sâu gây chia rẽ chính trị và sụt giảm trong thị trường địa ốc. Cuộc khủng hoảng hiện nay, khi các quốc gia trên thế giới thực hiện các biện pháp khẩn cấp để bảo vệ công dân khỏi bị nhiễm virus corona, cũng sẽ có tác động.
James Boughton, người đã phục vụ trong nhiều thập kỷ tại quỹ Tiền tệ quốc tế, nhận định rằng, sự sụp đổ ở Hàn Quốc và Indonesia là chất xúc tác cho sự thay đổi, động lực cho chính phủ hành động.
“Chỉ trong khủng hoảng các chính phủ mới có thể yêu cầu người dân chấp nhận những cải cách cần thiết, nhưng đau đớn”, ông Boughton nói. “Mỗi cuộc khủng hoảng cũng là một cơ hội”.
Ngân Giang (theo TGHN/Bloomberg)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này