
11:12 - 03/02/2025
Xanh hóa chính sách nông nghiệp
Vừa tham dự Hội thảo quốc tế “The 23th Asia – Pacific Agricultural Policy Forum”, tại Bangkok, Thái Lan, tháng 11/2024, bản thân cũng đã được mở mang rất nhiều từ kinh nghiệm chia sẻ của các nước trong khu vực.

Mục tiêu tăng trưởng xanh đã được Vĩnh Long kích hoạt từ năm 2019. CLB Doanh nghiệp dẫn đầu – Thương hiệu tiêu biểu tỉnh Vĩnh Long sẽ là đội ngũ có tiềm năng, tiềm lực để đi vào sản xuất xanh, tuần hoàn.
Để phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, không thể vội được, phải có trọng tâm, trọng điểm và phải có lực lượng hành động. Vì thế, tôi rất vui và đánh giá rất cao sáng kiến thành lập CLB Doanh nghiệp dẫn đầu – Thương hiệu tiêu biểu tỉnh Vĩnh Long. Đó sẽ là đội ngũ có đủ tiềm năng, tiềm lực để đi vào sản xuất xanh, tuần hoàn. Họ sẽ là những người tiên phong dẫn dắt. Khi các doanh nghiệp khác thấy họ thành công, họ sẽ tự động đi theo chứ không nhất thiết phải “cầm tay chỉ việc”.
Nông nghiệp xanh là cách tiếp cận trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và nâng cao sức khỏe con người, duy trì công bằng xã hội. Điểm then chốt của giải pháp này là cân bằng giữa phát triển sản xuất nông nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Trong đó phương thức canh tác chủ yếu sử dụng phân bón hữu cơ, giảm thiểu sử dụng hóa chất và thuốc trừ sâu, áp dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm và đặc biệt là sử dụng công nghệ số để quản lý hiệu quả. Mục tiêu của nền nông nghiệp xanh là tạo năng suất cao và bền vững, đồng thời giảm tác động tiêu cực đến môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, nâng cao chất lượng đời sống của người nông dân.
Vấn đề đang đặt ra cho Việt Nam và cũng là vấn đề đã đặt ra cho các nước đã đi trước là: “Các doanh nghiệp (DN) sẽ thu mua các sản phẩm nông nghiệp xanh ở đâu? Và các Hợp tác xã (HTX) bán những sản phẩm nông nghiệp xanh cho ai? Ở đâu?”. Lời giải cho bài toán này nằm ở chỗ làm cách nào để gắn kết DN và HTX trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp xanh, được xúc tác bởi những chính sách nông nghiệp xanh hữu hiệu nào của Nhà nước. Đó chính là những gì mà Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và Hàn Quốc đã làm.
Chính phủ Trung Quốc đã triển khai đồng loạt nhiều chiến lược và chính sách tầm quốc gia hướng tới mục tiêu “Nông nghiệp xanh”, tập trung vào: Hỗ trợ vốn; Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất, bảo vệ tài nguyên rừng, thay đổi phương thức canh tác nông nghiệp và áp dụng khoa học – công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
Thông qua chính sách này, Trung Quốc tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao với mạng lưới nghiên cứu khoa học rất lớn. Đặc biệt, chiến lược “Internet cộng với nông nghiệp” – tập trung vào ứng dụng công nghệ số để tạo chuỗi giá trị từ đầu vào, sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản xanh; Tạo ra hàng triệu việc làm và giúp xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn nghèo khó. Bên cạnh đó, họ còn xây dựng hệ thống các viện nghiên cứu nông nghiệp của Nhà nước và chính quyền các địa phương. Các viện này vừa nghiên cứu nông nghiệp vừa tăng cường liên kết nghiên cứu với các trường đại học, các xí nghiệp tư nhân và các hội khuyến nông.
Đối với Nhật Bản, nét đặc sắc trong phát triển nông nghiệp nói chung, nông nghiệp xanh nói riêng là Chính phủ coi trọng thể chế vận hành các hợp tác xã nông nghiệp. Họ khác ta ở chỗ họ nhìn nhận vấn đề thẳng thắn và thực chất.
Nhật Bản đã chia sẻ bằng cách triển khai Dự án “Tăng cường chuỗi giá trị cây trồng an toàn tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Dự án này là “Tư duy theo định hướng thị trường, từ khái niệm “Product – out” – “bán cái gì bạn sản xuất được” sang “Market-in” – “Trồng để bán”. Làm để thương mại hóa, bán cái thị trường cần.
Ở Thái Lan, gần gũi nhất với chúng ta, nước này đã tập trung vào việc tạo điều kiện cho từng vùng phát huy lợi thế đặc thù về khí hậu, điều kiện sinh thái và các điều kiện tự nhiên khác thuận lợi cho việc phát triển các sản phẩm nông nghiệp đặc thù. Họ tập trung phát triển các cụm ngành, đặc biệt cụm ngành chế biến tại vùng có lợi thế đặc thù, thông qua ưu đãi thuế, đào tạo nguồn nhân lực, sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Sản xuất đi tới đâu thì chế biến đi theo tới đó. Khi tôi qua Thái, họ nói rằng, nếu chỉ trồng lúa để bán gạo thì không giàu lên nổi. Phải có chế biến. Công nghiệp chế biến tại địa phương thông qua cơ chế để những HTX, các đơn vị chế biến tại địa phương sẵn sàng nhào vô, tương tác, liên kết.
Thái Lan phát triển nông nghiệp hữu cơ, tập trung vào ngành hàng lúa gạo (đặc thù) bằng cách: Hỗ trợ tài chính; Cấp giấy chứng nhận địa lý & bảo hiểm; được các cơ sở công nghiệp chế biến hỗ trợ (đóng gói, hút chân không,…), Thái Lan còn đẩy mạnh phát triển sản phẩm OTOP (One Tambon – One product) để phát triển các sản phẩm đặc thù của địa phương, dựa trên cơ sở chất lượng; mẫu mã, kiểu dáng độc đáo và định hướng xuất khẩu. Do đó, họ đẩy mạnh thương mại điện tử; xây dựng mạng lưới nghiên cứu; ứng dụng công nghệ thông tin và kỹ thuật số; tiếp cận thị trường quốc tế.
Kinh nghiệm của họ là đi chậm mà chắc, không làm ồ ạt. Trong cách đánh giá, họ đặt ra tiêu chuẩn, đánh giá nghiêm minh, quan điểm rõ ràng. Mình đi theo hỗ trợ tài chánh dàn đều và giảm dần khi cơ sở dãn nở, Thái Lan thì ngược lại, có trọng điểm và sự tăng tiến càng lớn thì mức hỗ trợ càng cao hơn.

Ngoài phát triển hàng lúa gạo hữu cơ, Thái Lan còn đẩy mạnh phát triển OTOP. Thái Lan chọn chính sách chậm mà chắc, đơn vị tăng tiến càng lớn thì mức hỗ trợ càng cao hơn.
Như mọi mô hình sản xuất khác, xanh – tuần hoàn sẽ không thể sống được nếu không có thị trường tiêu thụ. Cùng với việc thúc đẩy sản xuất xanh – tuần hoàn các nước cũng tập trung thúc đẩy thay đổi nhận thức của người tiêu dùng trong việc tiêu dùng xanh.
Tiêu dùng xanh có thể được định nghĩa là việc mua, sử dụng và quảng bá sản phẩm thân thiện với môi trường, có lợi cho sức khỏe con người, không đe dọa các chức năng hay sự đa dạng của các hệ sinh thái tự nhiên.
Ngay từ năm 1993, Trung Quốc đã lần đầu tiên thành lập chương trình gắn nhãn sinh thái cho các sản phẩm. Đến nay, trong hệ thống chứng nhận sản phẩm xanh ở Trung Quốc đã có hàng chục chủng loại, như thực phẩm, đồ uống, hàng dệt may, vật liệu xây dựng, đồ gia dụng, đèn chiếu sáng, ô tô và nhiều mặt hàng khác.
Còn ở Nhật Bản, năm 2021, chính phủ Nhật đã thông qua luật thúc đẩy mua sắm xanh. Chính sách này yêu cầu tất cả các Bộ và cơ quan Chính phủ phải thực hiện chính sách mua sắm xanh. Về luật mua sắm xanh công cộng, mục đích là để thúc đẩy khu vực công mua các sản phẩm và dịch vụ xanh ở cả cấp trung ương và địa phương.
Nhật Bản cũng đã có các chính sách về tái chế bao bì và vật liệu đóng gói nhằm thúc đẩy tái chế các loại thùng chứa và bao bì đóng gói sản phẩm. Theo bộ luật này, người tiêu dùng cần phân loại các vật liệu, sau đó cơ quan chức năng thành phố sẽ thu thập và giao lại cho các công ty được chỉ định để thực hiện tái chế.
Đối với Hàn Quốc, điểm khởi đầu của chính sách về sản phẩm xanh tại Hàn Quốc là chương trình dán nhãn môi trường, triển khai từ năm 1992. Chính phủ Hàn Quốc luôn coi các nhà sản xuất là những nhà tiêu dùng lớn. Chính phủ đã thông qua các hợp đồng tự nguyện về mua sắm xanh, gắn kết việc mua các nguyên liệu xanh, góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất và bán ra các sản phẩm thân thiện môi trường. Chính phủ Hàn Quốc cũng đã hợp tác với các công ty cung cấp thẻ tín dụng để đưa ra một hệ thống khuyến khích những người có ý thức tiêu dùng xanh: Thẻ tín dụng xanh (The Green Credit Card). Thẻ tín dụng xanh là một phương tiện để tích lũy và sử dụng điểm sinh thái khi khách hàng chi tiêu trong cuộc sống hàng ngày. Số lượng người sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm sinh thái thân thiện gần đây cho thấy thị trường của các sản phẩm thân thiện môi trường đang mở rộng.
Thái Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc làm được thì không lý do gì mình không làm được.
Để làm được, chúng ta cần chính sách: Doanh nghiệp cung ứng sản phẩm đầu vào và dịch vụ nông nghiệp được giảm thuế theo mức độ cung ứng sản phẩm nông nghiệp xanh và tái sử dụng bao bì; HTX Sản xuất sản phẩm nông nghiệp xanh được hỗ trợ tài chính tích lũy xuôi và bảo lãnh nợ đầu vào; Doanh nghiệp chế biến, thương mại sản phẩm nông nghiệp xanh được giảm thuế theo mức độ tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp xanh và tái sử dụng bao bì; Doanh nghiệp, khu vực Công và Tư nhân, Người tiêu dùng cuối cùng có chương trình tín dụng tiêu dùng xanh, tích lũy điểm.
PGS.TS Nguyễn Phú Son (theo Giai phẩm xuân TGHN)
Ngày đăng: 3/2/2025
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này