
10:46 - 22/01/2025
Vốn xanh cho kinh tế xanh
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi theo hướng bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu, ĐBSCL đã, đang và sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt trong việc thu hút đầu tư.

Tọa đàm “Nguồn vốn đầu tư cho liên kết bền vững”, trong khuôn khổ Mekong Connect 2024, sáng 18/12, thu hút sự tham gia của 600 khách mời là lãnh đạo các bộ ngành, địa phương, đại diện ngoại giao, đại diện doanh nghiệp trong và ngoài nước. Ảnh: BSA Media.
Tọa đàm giữa các chuyên gia, doanh nghiệp và đại diện các quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài tại Diễn đàn Mekong Connect 2024 đã gợi mở nhiều nhận thức, hướng đi mới để giúp ĐBSCL giải bài toán vốn được coi là cực khó bấy lâu nay.
Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan: Ba thách thức – ba cơ hội
Cả nước đang chuyển sang chuyển đổi xanh với cố gắng để phát triển bền vững và chống chịu với biến đổi khí hậu thì có cơ hội nào cho ĐBSCL?
Tôi nghĩ cái chung nhất cho ĐBSCL trước hết là tự thân thay đổi về cách phát triển của chúng ta theo hướng bền vững, đây có thể coi là một sự đổi mới hết sức cơ bản, một cuộc cách mạng trong cách thức mà ĐBSCL phát triển trong tương lai. Trước đây Đồng bằng phát triển trên trên cơ sở nông nghiệp là chính. Chúng ta cứ nghĩ nông nghiệp là xanh, nhưng thực tế nông nghiệp của ĐBSCL phát triển lâu nay là nâu, là đen chứ không phải xanh. Trong vài năm gần đây chúng ta đang cố gắng dần theo xu hướng xanh. Xanh, nghĩa là phải bảo vệ được tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ được hệ sinh thái, tiết kiệm được tài nguyên. Đây là cơ hội để sửa những cái chưa đúng, để làm sao cho các nguồn lực của mình khai thác được một cách tốt nhất, hiệu quả nhất.
Một cơ hội khác, đó là Nghị quyết 120 về phát triển ĐBSCL đã đưa ra phương châm thuận thiên – định hướng vô cùng quý và vô cùng đúng đắn cho chúng ta. Biến đổi khí hậu, những vấn đề của ông trời gây ra khó rất là khó lường. Kinh nghiệm bản địa, kinh nghiệm của ông bà ta ngày xưa cũng đã có rất nhiều. Chúng ta phải thuận thiên. Thuận thiên trong điều kiện biến đổi khí hậu (BĐKH) lại càng khó khăn. Nhưng dù sao phát triển theo hướng thuận thiên chứ không đi ngược với những quy luật của tự nhiên là điều mà chắc chắn chúng ta phải nhìn thấy. Cũng trong Nghị quyết 120 đã đưa ra chủ trương cho ĐBSCL là thay đổi cấu trúc của nông nghiệp, ưu tiên của nông nghiệp. Trước đây chỉ lúa, lúa và lúa thì bây giờ là ưu tiên số một là thủy sản, số hai là cây ăn trái và thứ ba là lúa. Tôi nghĩ là thứ tự ưu tiên đó cũng hợp lý. Trên cơ sở đó ĐBSCL thực sự có thể khai thác các nguồn lực khác của mình, chuyển đổi các loại cây trồng và canh tác nông nghiệp để có được lợi ích cao hơn, mang lại giá trị gia tăng nhiều hơn và đặc biệt là cải thiện đời sống của nông dân. Chứ nếu chỉ trên cơ sở lúa gạo không thôi thì không có cách nào có thể làm cho đồng bằng giàu có lên được.
Thứ ba, trong thời gian này, chủ trương của lãnh đạo trung ương là trao quyền cho các địa phương, đồng thời đi cùng với chủ trương là phát triển các liên kết vùng, phát triển đất nước theo các vùng đã có quy hoạch vùng rồi. Đồng bằng cũng đã có rồi và cũng đã bàn thảo với nhau nhiều. Về thực hiện quy hoạch vùng lúc này cùng với sự phân cấp và trao quyền tối đa trong địa phương, đương nhiên trao quyền đi cùng với giao trách nhiệm nhưng như vậy cho chúng ta có cơ hội để chủ động làm theo những cái gì cần thiết của vùng, của từng tỉnh, của từng địa phương. Nó không giống như trước đây là cái gì cũng phải xin ý kiến và xin ý kiến nhiều khi của những người không biết gì về vùng mình để mà quyết định cho vùng mình. Bây giờ, việc đó có quyền chủ động hơn thì tôi nghĩ là những người sống ở Đồng bằng làm việc ở Đồng bằng hiện nay, kể cả các vị lãnh đạo từ khắp nơi được đưa về Đồng bằng đều có một tâm huyết mong muốn phát triển Đồng bằng.
Về thách thức, tôi nghĩ có mấy điều đơn giản thôi. Một là, chúng ta cũng biết là chúng ta phải làm gì nhưng mà chưa biết làm như thế nào. Trên thực tế, những năm vừa qua năm nào cũng có những kế hoạch nọ, kế hoạch kia rồi mấy năm liền có báo cáo kinh tế của ĐBSCL. Nhất là năm ngoái báo cáo tập trung vào các vấn đề thể chế để phát triển cho Đồng bằng nói rõ những gì cần phải làm, nhưng làm như thế nào thì đấy là điều số một, có lẽ cũng cần phải cùng với nhau bàn bạc nhiều hơn để biết cách làm, để mà có thể tạo được sự thay đổi cho chúng ta.
Hai là có được đủ ý chí để làm theo tinh thần dám nghĩ, dám làm vẫn là cần lắm. Có đủ ý chí, đủ quyết tâm, đủ sự quyết đoán để thay đổi tự thân hay không tôi nghĩ điều đó cũng là rất cần. Và từ đấy, nếu có ý chí thì thực sự cũng sẽ có thể tạo được sự đồng thuận, tạo được niềm tin lẫn nhau giữa Nhà nước, với dân, giữa các doanh nghiệp, với nhà nước, với dân để tin nhau, dựa vào nhau mà phát triển. Nhất là đối với các chuyên gia, những nhà khoa học công nghệ từ Sài Gòn đang về đây rất nhiều để đóng góp cho sự phát triển của Đồng bằng. Có sự dám làm, dám liên kết và tin tưởng nhau để làm thì sẽ có thể làm được.
Nhân tố thách thức thứ ba cũng thường hay nói đến và coi là chủ yếu là nguồn lực. Cái đó cũng rõ rồi, nguồn lực thì bây giờ không ở đâu đủ. Các vị quan sát vừa rồi ở hội nghị COP29 thì nghịch lý là sau 29 năm trời điều tranh luận lớn nhất vẫn là nguồn lực ở đâu để thực hiện các chương trình chống BĐKH và đến năm nay thì như vậy. Cam kết của các nước phát triển cao hỗ trợ cho các nước đang phát triển mới đạt được mức 300 tỷ. Trong khi nhu cầu được 1.000 tỷ một năm thì đến bây giờ mấy năm từ mức 100 tỷ lên 300 tỷ. Mà đấy là cam kết chứ còn thực hiện được thì lại là câu chuyện khác. Vậy thì lượng nguồn lực này vốn là kinh khủng như vậy rồi. Ở đây có thể chúng ta cũng hiểu những khó khăn chung về nguồn lực.
Tôi nghĩ quan trọng là nếu như chúng ta hiểu các vấn đề của chúng ta, tận dụng được các cơ hội để tự thay đổi thì cũng là tạo cơ hội để cho các nguồn vốn về được các nhà đầu tư dám về và dám làm.
Bà Huỳnh Thanh Bình Minh, giám đốc Quỹ Tael Partners Việt Nam: “Cần một làng để nuôi một doanh nghiệp lớn hơn”
Cơ hội khi mà chúng tôi nhìn vào ĐBSCL là nông nghiệp, lương thực. Đó là những nhu cầu rất cơ bản. Tael Partners Việt Nam đã đầu tư 1,3 tỷ USD ở khu vực Đông Nam Á. Riêng ở Việt Nam Quỹ Tael Partners đã đầu tư từ 2013, vào tám công ty trong các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, giáo dục…
Để nhìn ra được cơ hội đầu tư cụ thể thì những người quản lý quỹ phải nhìn thấy đầu tiên là thị trường lớn. Thủy-hải sản, lúa gạo, rau-củ-quả đều có thị trường rất lớn. Các công ty ở Việt Nam đều đã xuất khẩu đi hàng chục nước. Nhưng như các công ty ở Thái Lan họ có thể xuất khẩu đến 150 nước, tức là dư địa để phát triển cho các công ty ở Việt Nam còn rất lớn.
Chúng tôi mong muốn kể được câu chuyện để thuyết phục hội đồng đầu tư đầu tư vào. Để được như vậy thì doanh nghiệp phải có câu chuyện tăng trưởng của họ. Câu chuyện tạo ra giá trị. Câu chuyện về việc tối ưu hóa các nguồn lực, tăng năng suất, giảm chi phí, giảm thất thoát ra sao. Chẳng hạn, Việt Nam có mức thất thoát của ngành nông nghiệp 15-40%, tức là hậu thu hoạch bị thất thoát. Những doanh nghiệp nào có giải pháp để giải quyết những vấn đề này, có giải pháp để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, lấy phụ phẩm của ngành nông nghiệp để tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, như vỏ tôm, vỏ dừa, vỏ sầu riêng… thì đều là những câu chuyện để chúng tôi thuyết phục các nhà đầu tư đầu tư vào.
Ngoài ra, các ngành kinh doanh này phải áp dụng được các tiến bộ công nghệ của thế giới. Ngành nông nghiệp sẽ không ai đầu tư nếu phụ thuộc vào thời tiết, chịu nhiều rủi ro. Đầu tư thì phải tính toán được rủi ro, nếu không tính toán được rủi ro sẽ không thể thuyết phục được họ. Chẳng hạn, sử dụng các số liệu về thời tiết, về môi trường để tính toán được rủi ro ở mức độ nào, và làm sao giải quyết được rủi ro này. Khi đó mới thuyết phục được nhà đầu tư, đồng tiền họ bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu với mức độ rủi ro như thế nào.
Nhìn vào các doanh nghiệp ở ĐBSCL chúng tôi thấy rất nhiều cơ hội để đầu tư, nhưng mỗi quỹ thì họ cần một số tiền để bỏ ra tương xứng. Ví dụ chúng tôi đang quản lý một quỹ chừng 1,3 tỷ USD thì chúng tôi cần một khoản đầu tư từ 15 đến 40 triệu USD cho một doanh nghiệp. Để hấp thụ số vốn này thì khả năng doanh nghiệp thực thi phải cực tốt. Ngồi kiểm lại chúng tôi chưa thực sự thấy nhiều cơ hội để đầu tư. Chúng tôi thực sự mong có nhiều doanh nghiệp được ươm tạo, được hỗ trợ, một hệ sinh thái, “cần một làng để nuôi một doanh nghiệp lớn hơn”, để tạo ra tiềm năng để chúng tôi đầu tư.
Bà Nguyễn Thị Thu Hà, chuyên gia tư vấn cấp cao Công ty tư vấn Clickable Impact: Ba rào cản ở thị trường Việt Nam
Theo một báo cáo mới nhất của châu Á, trong khoảng ba năm trở lại đây số lượng nhà đầu tư chuyển từ đầu tư truyền thống sang đầu tư tác động đã nhân đôi. Hiện cũng có nhiều nhà đầu tư tác động dần chuyển qua thị trường Việt Nam. Cung cấp các khoản tài trợ tác động cho các công ty Việt Nam. Đặc thù của Clickable là hỗ trợ các công ty ở nhóm khởi nghiệp khí hậu, nên chúng tôi quan tâm đến các doanh nghiệp có nhu cầu vốn nhỏ hơn, nằm khoảng 1-5 triệu USD.
Các nhà đầu tư tác động ở Việt Nam chưa nhiều, họ thường chỉ đóng vai trò tham gia, nhưng chưa tham gia với vai trò dẫn dắt. Một cuộc chơi thú vị ở Việt Nam là các nhóm nhà đầu tư cung cấp các sản phẩm hỗ trợ vốn vay cho đầu tư tác động. Các nhà đầu tư vốn vay này tập trung vào các nhóm doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ. Đặc biệt, yêu thích các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu của phụ nữ trên 20% trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Tôi thấy có ba rào cản ở thị trường Việt Nam. Thứ nhất là khả năng các công ty có thể xây dựng mô hình kinh doanh và quản trị rủi ro, phòng vệ được các rủi ro khí hậu, tránh việc suy giảm tài sản, khả năng sinh lợi của tài sản. Thứ hai, bản thân doanh nghiệp ĐBSCL thường chỉ theo mô hình làm việc với nông dân. Các mô hình này tạo ra được tác động xã hội tích cực, nhưng doanh nghiệp lại chưa biết cách làm thế nào để truyền thông về tác động xã hội tích cực đã tạo ra được. Các quỹ đầu tư quan tâm đến việc giảm lượng khí nhà kính, nhưng họ cũng quan tâm đến việc tạo ra được bao nhiêu sinh kế cho người có thu nhập thấp, những người ở đáy tháp thu nhập. Tức là tạo ra được tác động xã hội nhưng phải tìm cách chứng minh và thuyết phục được nhà đầu tư. Thứ ba là năng lực quản lý tài chính một cách minh bạch. Nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường, việc đầu tiên là kiểm tra xem định giá của công ty như thế nào, bằng cách kiểm tra dự phóng dòng tiền tương lai. Họ xem liệu chúng ta thực sự có mang lại được dòng tiền dương.
Ông Anderson Tan, giám đốc công ty Accelebator Singapore: Tại sao người Singapore đầy ngưỡng mộ và ganh tỵ khi nhìn vào Mekong
Chúng tôi nhìn Việt Nam với con mắt đầy ngưỡng mộ và ganh tỵ vì Việt Nam vốn có nhiều sự ưu đãi của thiên nhiên để phát triển nông nghiệp. Tôi hy vọng Việt Nam có thể trở thành nơi sản xuất lương thực cho Đông Nam Á. Đó là cách người Singapore nhìn vào Mekong và Việt Nam.
Nếu tiềm năng này được hiện thực hóa thì lợi ích rất lớn. Hiện nay, Việt Nam còn rất nhiều dư địa phát triển nông nghiệp. Ví dụ chỉ cần nhìn vào sự lãng phí sau thu hoạch, thì chúng ta thấy nếu tận dụng một cách hợp lý các phế phẩm, các thứ đang bị bỏ phí trong nông nghiệp sẽ trở thành những sản phẩm có giá trị cao và phát triển bền vững.
Mekong Connect có thể hội tụ các địa phương, chuyên gia, doanh nghiệp toàn vùng như một cái hub thì các nhà đầu tư, như các nhà đầu tư Singapore chẳng hạn, có thể chỉ cần phải tìm đến đó và có thể tìm thấy các cơ hội đầu tư của mình thay vì phải đi khắp cả một vùng ĐBSCL rộng lớn. Chúng ta gom hết lại đây và các nhà đầu tư tìm đến, thì đó là sự kết nối.
Một khía cạnh hợp tác đầy tiềm năng khác giữa Singapore và ĐBSCL đó là công nghệ nông nghiệp. Singapore có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp (Agritech Startup) nhưng lại thiếu một môi trường thực tế để áp dụng, trong khi Việt Nam lại là cả một vùng thực địa rộng lớn và đầy tiềm năng. Nếu có thể tạo được sự kết nối này (công nghệ Singapore và tài nguyên Việt Nam-Mekong) thì tiềm năng sẽ rất lớn, bởi bản thân Singapore là một bàn đạp để các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra các nước khác.
Ông Trần Công Vinh, phó tổng giám đốc công ty CP Phúc Sinh: Muốn gọi được vốn, điều đầu tiên, phải minh bạch
Các quỹ khi họ vào làm với Phúc Sinh nói riêng và với các công ty nói chung thì yếu tố đòi hỏi đầu tiên đó là sự minh bạch. Sự minh bạch đến từ hai vấn đề – vấn đề về tài chính và vấn đề về phi tài chính. Tài chính chắc chắn là phải minh bạch. Một quỹ họ đầu tư bao giờ họ cũng phải có lợi nhuận và phải rõ ràng. Các quỹ nước ngoài họ ở quốc gia của họ, chúng ta ở Việt Nam thì đó là sự khác biệt về khoảng cách, về văn hóa và họ phải cần sự minh bạch trước tiên.
Điều thứ hai là minh bạch về phi tài chính. Cách đây 14 năm, lúc đó Phúc Sinh là một doanh nghiệp xuất khẩu. Khi làm với đối tác châu Âu thì một trong những điều họ yêu cầu lúc bấy giờ đã là “làm bền vững”. Lúc đó Phúc Sinh xuất khẩu hồ tiêu và cà phê. Khi nhận được yêu cầu đó, Phúc Sinh bắt đầu tập trung làm về phát triển bền vững. Nhưng không phải làm là thành công liền, mà thất bại, tốn rất nhiều triệu đôla. Do đó, cần phải có sự kiên định. Mười mấy năm trước, khi Phúc Sinh làm việc với nông dân, người ta vẫn chưa hiểu khái niệm phát triển bền vững. Lúc đó, nguồn nhân lực hiểu biết khái niệm ESG ở Việt Nam cũng chưa có. Phúc Sinh giải quyết bằng cách thuê chuyên gia tư vấn người tại địa phương để thuyết phục, tương tác, chỉ cho nông dân và cùng nhau làm. Đến năm 2010, Phúc Sinh đã đạt chứng nhận bền vững theo tiêu chuẩn UTZ (nay là Rainforest Alliance), trở thành doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam sở hữu chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế này.
Phát triển bền vững có hai mục tiêu: Đầu tiên là về vốn, thứ hai là phát triển bền vững, tự bản thân nó đã mang ra thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp chứ không phải là mất đi lợi nhuận doanh nghiệp. Vì vậy khi mình làm bền vững thì lợi cả đôi đường – cả về bảo vệ môi trường và xã hội, tác động môi trường và xã hội, giảm thiểu rủi ro môi trường và xã hội và cũng đồng thời làm cho doanh nghiệp mình tốt hơn và lợi nhuận cao hơn.
Ngọc Hiệp (theo Giai phẩm xuân TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này