
10:23 - 04/02/2025
TS Nguyễn Thị Hậu: Cần lắm những bảo tàng mới
Luật di sản văn hóa Việt Nam đã có những quy định về các loại hình bảo tàng theo nhiều chủ đề, nội dung khác nhau, trong đó có việc thành lập ngoài công lập và những điều kiện hoạt động.
Tuy nhiên từ khi Luật ra đời (2001) đến nay đã 25 năm nhưng vẫn còn khá ít các bảo tàng tư nhân mà phần lớn “trữ lượng” hiện vật quý còn ở dưới dạng các “sưu tập tư nhân”. Tôi cho rằng cần thành lập nhiều loại hình bảo tàng mới phản ánh toàn diện hơn về văn hóa và con người Việt Nam. Đặc biệt là hai loại hình bảo tàng sau đây có thể xây dựng ở nhiều nơi trên khắp đất nước ta.
Bảo tàng nông nghiệp
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á là một trong những nơi nghề trồng trọt xuất hiện sớm nhất thế giới. Từ ngàn năm trước, nông nghiệp trồng lúa đã trở thành ngành kinh tế chính, góp phần quan trọng cho sự hình thành và phát triển nền văn minh nông nghiệp của nước ta.
Tuy nhiên cho đến nay chúng ta chưa có một Bảo tàng Nông nghiệp mang tầm quốc gia, xứng với giá trị lớn lao của ngành kinh tế này. Thành lập “Bảo tàng nông nghiệp Việt Nam” là để có thể sưu tầm, lưu giữ các giống lúa và cây trồng từ xưa đến nay, trưng bày các mô hình các phương thức trồng trọt ở các vùng miền khác nhau của đất nước: từ đồng bằng sông Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long hay dọc dải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển miền Trung. Từ miền núi, trung du phía bắc đến Tây Nguyên, Đông Nam bộ… Mỗi vùng tùy theo điều kiện tự nhiên có những truyền thống canh tác khác nhau, mỗi phương thức sẽ có những phức hệ kỹ thuật khác nhau và cách thức sử dụng nông cụ ở mỗi vùng miền, những kỹ thuật hỗ trợ như giống cây, thủy lợi, phân bón… của nghề trồng lúa hay các cây trồng khác.
Từ khoảng cuối thế kỷ 19 nước ta phát triển ngành trồng các cây công nghiệp do người Pháp du nhập vào (cao su, cà phê…), rồi từ nửa sau thế kỷ 20 phát triển các trang trại trồng cây ăn trái. Ở Nam bộ “văn minh miệt vườn” xuất hiện sớm, sản phẩm trồng trọt trở thành hàng hóa lưu thông rộng rãi trong nước, thậm chí ra nước ngoài chứ không chỉ mang tính chất tự cung tự cấp như các vùng miền khác. Các loại cây ăn trái, cây công nghiệp, cây trồng rừng… cũng cần được có mặt trong Bảo tàng nông nghiệp vì chúng phản ánh sự thay đổi giống cây trồng đi cùng sự phát triển của nền kinh tế.
Nhưng trước khi Bảo tàng Nông nghiệp Việt Nam được xây dựng thì nên thành lập “Bảo tàng lúa gạo Việt Nam”. Đây cũng có thể là một bảo tàng trưng bày riêng về các loại lúa gạo và những “sản phẩm sau thu hoạch” của nghề trồng lúa. Đặc biệt là sản phẩm ẩm thực như cơm, xôi (nấu trong nồi, nướng trong ống tre, đồ xôi…), các loại bánh, bún, phở, nấu rượu… Gạo, nếp chế biến được rất nhiều món ăn vì vậy cách thức chế biến, vật dụng chế biến… phong phú, đa dạng theo vùng miền và theo thời gian. Có nhiều loại thức ăn trước đây chỉ dành cho những dịp đặc biệt nay phổ biến hàng ngày, nhưng cũng có nhiều món ăn cổ truyền đang có nguy cơ “biến mất” trong xã hội công nghiệp. Do đó giá trị văn hóa “phi vật thể” như kỹ thuật chế biến, ý nghĩa của nó đang mai một, biến dạng và biến mất.
Liên quan đến lúa gạo là công cụ chế biến lúa gạo và các nghề thủ công như nghề làm các loại cốm, bún, phở, các loại bánh… Rồi cách ăn các loại bánh (ví dụ cách làm bánh xèo miền Trung và Nam bộ khác nhau thế nào, những thứ rau ăn kèm, các loại nước chấm… các “biến thể” của bánh xèo là bánh khọt, bánh khoái chẳng hạn…). Đặc biệt là bao bì của các loại bánh đều từ các loại lá cây mà ngày nay ta coi đó là “bao bì tự nhiên” thân thiện với môi trường.
Trong bảo tàng có thể trưng bày về hệ thống đồ gốm dùng trong nấu nướng, ăn uống… hoặc các vật dụng chế biến bằng các chất liệu khác nhau từ truyền thống đến hiện đại… “cơ cấu” bữa ăn hàng ngày, bữa ăn có tính chất nghi lễ (đám giỗ, đám cưới, lễ hội…)… đều có liên quan mật thiết với văn hóa ẩm thực. Ở những khu du lịch, khi bán những đặc sản là nông sản có thể kết hợp trưng bày (một mức độ nhất định) về cách sản xuất, chế biến các loại sản phẩm. Điều này góp phần tạo được sự tin tưởng cho khách đến tham quan và mua sản phẩm, cũng đồng nghĩa với việc gìn giữ thương hiệu.
Bảo tàng danh nhân văn hóa
Ở các nước châu Âu, hầu hết những nhà văn hóa nổi tiếng trên mọi lĩnh vực (nghệ sĩ, nhà văn, nhà khoa học, nghệ nhân của nghề thủ công truyền thống…) đều có nhà lưu niệm hay bảo tàng, được hình thành tại một lâu đài hay ngôi nhà nơi họ từng sinh ra và lớn lên, hoặc một nơi khác mà họ sinh sống lâu dài. Tại đó lưu giữ và trưng bày hiện vật về dòng họ, gia đình, cuộc đời và những thành tựu của danh nhân. Một số người có “nhà lưu niệm” ở nhiều địa phương vì nơi đó gắn với một giai đoạn, sự kiện đặc biệt…
Hầu hết các tòa nhà và khu vườn hay công viên, thậm chí khu rừng xung quanh… thuộc gia đình dòng họ danh nhân hoặc sau đó thuộc về người khác, nhưng đều được bảo tồn khá tốt về cảnh quan tự nhiên, kiến trúc công trình và nội thất, đồ đạc hiện vật giữ nguyên vị trí và được bảo quản cẩn thận. Những lâu đài, dinh thự, tòa thành ở đâu cũng có thể coi là nơi lưu niệm hay bảo tàng của các nhân vật lịch sử hay của dòng họ nổi tiếng một vùng.
Bên cạnh đó là hệ thống bảo tàng danh nhân thuộc nhà nước. Có thể vì công trình hay tòa nhà đó không còn ai trong gia đình dòng họ sở hữu, hoặc đã hiến tặng cho nhà nước, có thể do nhà nước hoặc chính quyền địa phương thành lập kỷ niệm những danh nhân lớn của cả nước hay tiêu biểu của địa phương. Dù bảo tàng quy mô lớn hay nhỏ, sở hữu tư nhân hay nhà nước thì cơ quan văn hóa nhà nước vẫn là nơi chịu trách nhiệm về nghiệp vụ (nghiên cứu, hướng dẫn, tư vấn trùng tu, sửa chữa, trưng bày, giới thiệu…), đồng thời chính quyền tạo điều kiện thuận lợi để di tích tham gia vào du lịch, hoạt động văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, chú trọng những hoạt động hướng đến và gắn bó với cộng đồng địa phương. Nhà nước và tư nhân, cộng đồng cùng có lợi, trước mắt là kinh tế nhưng lâu dài là giá trị di sản ngày càng được tích lũy lớn hơn. Đặc biệt, việc cộng đồng địa phương được coi là chủ thể của các bảo tàng, nhà lưu niệm danh nhân đã giúp nâng cao sự hiểu biết về lịch sử – văn hóa địa phương, qua các phương tiện truyền thông hiện đại người dân trở thành những kênh thông tin quảng bá và thu hút du khách, từ đó phát triển thêm nhiều sản phẩm văn hóa, kinh tế của địa phương.
Tại các thành phố Việt Nam, nhu cầu về nhà lưu niệm, bảo tàng danh nhân là có thật và ngày càng cấp bách. Thành phố là nơi sinh sống và hoạt động của hầu hết danh nhân văn hóa thời cận – hiện đại, khi họ mất đi thì phần lớn tư liệu hiện vật phân tán hoặc bị mất, có trường hợp chính ngôi nhà của họ cũng bị chia năm xẻ bảy hoặc thuộc về người khác. Nhiều trường hợp khác không có nhà riêng để có thể xây dựng thành nhà lưu niệm, hoặc nếu có thì chỉ gia đình và số ít bạn bè biết đến. Điều đó làm mai một rất nhiều những di sản văn hóa là thành tựu hay thuộc sở hữu của các danh nhân, cũng là mất đi một nguồn “vốn văn hóa” quý giá.
Những chuyến đi của tôi đến quốc gia nào cũng luôn có chương trình tham quan và làm việc tại di tích, bảo tàng, nhà lưu niệm danh nhân… Tôi nhận thấy đó là sự gắn kết chặt chẽ giữa truyền thống tôn vinh danh nhân văn hóa, giữ gìn di sản, chế độ quản lý đất đai, tài sản trên đất đai và hệ thống luật pháp liên quan đến di sản văn hóa… tất cả đều đồng bộ trên luật pháp và trong thực tiễn.
Các bảo tàng ngành nghề ở các nước khác cũng rất đa dạng, gắn liền với nghề thủ công truyền thống. Xây dựng, quảng bá và tiếp thị bằng du lịch, cộng đồng địa phương có thể duy trì nghề thủ công làm “sinh kế”, đồng thời nâng cao lòng tự hào đối với di sản truyền thống. Vì vậy ở nước ta cũng có thể thành lập rất nhiều bảo tàng ngành, nghề, không cần “hoành tráng” nhưng chuyên sâu vào một chủ đề nhất định. Đặc biệt các doanh nghiệp mà sản phẩm hàng hóa đã có thương hiệu càng cần thiết xây dựng bảo tàng để lưu giữ truyền thống, đồng thời tạo dựng thương hiệu về văn hóa, góp phần xây dựng hệ thống bảo tàng Việt Nam phong phú hơn.
Khi xã hội và các doanh nghiệp chú ý đến việc “lập bảo tàng” cho sản phẩm Việt, cho danh nhân, doanh nhân Việt thì sẽ mang lại nhiều lợi ích: tăng cường quảng bá thương hiệu, lưu giữ lịch sử ngành nghề và tôn vinh vai trò doanh nhân. Tăng thêm giá trị văn hóa của sản phẩm, góp phần tích cực quảng bá “hàng hóa Việt Nam”, quảng bá những giá trị văn hóa Việt Nam.
Nguyễn Thị Hậu (theo Giai phẩm xuân TGHN)
Ngày đăng: 4/2/2025
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này