
11:06 - 17/01/2025
Nguyễn Hàng Tình: Cả rừng thông hát lên
“Đà Lạt”, hãy “nhốt” ta vào trong ngươi đi, để ta nếm được sự ngọt ngào của thị thành. Cầu trời rằng, không phải hễ nghĩ đến đô thị là phải tất bật, lao nhao, tranh đua, và nồng nặc mùi tiền…
Cho… mơ mộng
Riêng nơi đây, từng có những năm tháng dài yên ả, ở đất, ở trời, và ở người nữa. Những năm tháng cảnh sắc thanh lành, lê thê, điềm nhiên chắc nịch một thần thái nhuận hòa, sang trọng. Những năm tháng mà:
“Ai hỡi làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu”.
Bậc tinh anh thi sĩ, Hàn Mặc Tử, cảm nhận nơi này dzậy đó. Cái thành phố mà tao nhân mặc khách, trí thức, thầy tu, cùng giới thượng lưu giàu có Pháp hay Việt, đến kẻ ăn mày, đám giang hồ đâm chém ở đâu đó từ Sài Gòn dạt lên thì hết thảy đều phải “cúi đầu” trước sự tĩnh tại, thơ mộng, lành mạnh của nó, dẫu nó ra đời rất trẻ so bao thành phố lâu đời ở Châu Á. Cái thành phố mà Triết nhân Phạm Công Thiện cầu trời rằng, nếu cả thế giới này có rơi vào sụp đổ bởi đại tai ương nào đó từ vũ trụ, thì xin hãy “Chừa lại Đà Lạt cùng Lhasa(Tây Tạng) !”. Những năm tháng mà nhạc sĩ lữ khách Y Vân viết thành nhạc:
“Cả rừng thông hát lên
Cung đàn u hoài”.
Đẹp, thơ mộng, sang trọng huyền ảo đến mức thế nhân cứ hay ví nó là “Thiên đường”. Cái xứ sở mà ai đến cũng muốn yêu, và thành “người hiền”, người “có học”, và bớt sân si, ham hố bạc tiền. Đà Lạt sang trọng nhờ kiến trúc “Tây”. Thành thật với nhau về sự thật này đi mà, ở thế kỷ này rồi, khước từ hay uốn cong nó đi theo một dạng ý chí nhỏ mọn nào đó mà làm chi.
Nhưng không có Ngo thì biệt thự Pháp mọc lên ở Đà Lạt cũng như mọc lên ở nơi khác thôi, dù Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Vientain, Phnôm Pênh, Huế, Nha Trang, Sài Gòn, hay Lộc Ninh, Tiền Giang, Vĩnh Long… Cũng những bản thiết kế biệt thự bất kỳ kia nhưng mang đi khai triển thi công cùng lúc các xứ kia thì chắc chắn nó thành một “kiến trúc” khác. Nghệ thuật kiến tạo đô thị, kiến trúc nó có trạng thái của nó, sinh thái văn hóa của nó, hồn cốt của nó. Vấn đề là không gian, sinh thái kiến trúc, hình thái đô thị, chứ không phải cái bản thiết kế lạnh lùng tính toán vật lý và kỹ thuật xây dựng nào. Nó nằm trong rừng thông khác nằm bên bãi biển trống trơn, và càng khác khi nằm chen chúc với trùng trùng bê tông ám khí ở Sài Gòn. Tất nhiên bản thiết kế đẹp thì công trình hình thành không thể xấu, chỉ là nó mang giá trị khác, ở nơi nọ nơi kia.
Ngo – người Việt ở Đà Lạt gọi trại ra từ âm N’ho ở tiếng của thổ dân Lạch bản địa chỉ loài cây Thông mà, nó thổi hồn vào kiến trúc Pháp. Ấy là trường phái/phong cách kiến trúc Pháp lãng mạn tinh tế hình thành quãng cuối thế kỷ XIX nhưng kéo dài đến những năm đầu thế kỷ XX, và người Pháp mang sang cao nguyên Liang Biêng (họ gọi Langbian) ở miền Viễn Đông. Nó đẻ ra một thứ “kiến trúc Pháp Đà Lạt”. Bởi nó có cuộc đời riêng, thăng hoa riêng, bản sắc riêng, sinh thái riêng, linh hồn riêng, và cả số phận riêng.
Kiến trúc nằm nghe rừng Ngo hát. Không thể diễm lệ hơn, xa hoa hơn! Tất cả đều không là ngẫu nhiên, mà tìm hiểu mới biết người ta nghiên cứu rất sâu, bài bản, và thậm hiểu cao nguyên Liang Biêng để hình thành nên triết lý sáng tạo đô thị, tầm nhìn, chủ trương, với những bậc thầy về đô thị ở đầu thế kỷ XX ấy mà cố quên vẫn không quên được họ, là Quy hoạch gia/Kiến trúc sư Ernest Hébrard, Louis Georges Pineau, là Jacques Lagisquet, Jean O’Neill…
Ảnh sáng tác của kẻ khác thời là tôi về Đà Lạt chắc chắn chẳng ăn thua để khả dĩ “dựng lại” về xứ sở này, vì nó chỉ như là vớt vác tấm thân tàn buổi của một “mỹ nữ”. Mà thứ rừng Ngo thướt tha vẹn đầy kia chỉ may thay còn đọng đủ hình dạng trong ảnh của những tay máy lẫy lừng buổi trước như Đặng Văn Thông, Nguyễn Bá Mậu, Trần Văn Châu. Rừng Ngo của cái thuở mà loài người còn biết từ tốn trước cái đẹp, chứ không phải yêu bất động sản, vật chất như bây giờ. Rừng Ngo của cái buổi người Đà Lạt mộc mạc lịch thiệp, đơn sơ, bản lĩnh, là chính mình, mà không quan trọng hay để ý người Sài Gòn, người Nha Trang, hay người Mỹ, người Nhật, người Thái, hay ý nghĩa của những đô thị đó ra sao. “Tàu” thì dĩ nhiên không có chút bóng dáng nào ở Đà Lạt cả, nên không cần nhắc đến rồi. Bởi Đà Lạt là đô thị duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam vô nhiễm hoàn toàn với văn hóa bùng nhùng của Tàu. Ấy là thuở, người Đà Lạt tập trung làm lơghim trồng giống rau, hoa, củ phù hợp khí hậu lạnh để sống, còn lại là viên chức, nhà giáo, thầy thuốc, linh mục, hòa thượng, nhà khoa học, ai thích kiếm tiền thì làm du lịch cất khách sạn, nhà nghỉ, mở hàng ăn, bán cà phê, chạy xe ngựa, tiệm rửa ảnh, chụp hình dạo… Cái thuở Sài Gòn vọng ngóng Đà Lạt chứ không phải ngược lại như bây giờ những năm hai mươi của thế kỷ XXI. Ngày đó ai cho con cái lên Đà Lạt học là cái gì đó rất đẳng cấp, thuộc về gia đình có hiểu biết đủ sâu, thượng lưu. Nên người xứ ấy mới hình thành mỹ cảm: “Sắp tới đi… Đà Lạt !”. Đâu đó có thể hiểu là “Được đi Đà Lạt !”.
Thi vị làm sao, cái thành phố lừng danh nhưng ra đời bằng cuộc tài tử, tài tử mạo hiểm của một Nhà vi trùng học, khi ông ấy ngẫu hứng mà đi thám hiểm cái miền núi cao xa ngái nhìn từ duyên hải Nha Trang, để từ đó mà khám phá ra vùng rừng đầy cây Ngo lá kim. Mà từ những cuộc lãng tử ngoại cỡ đó, con người kia, bác sĩ Yersin đã gợi ý cho nhà cầm quyền sau đấy lập ra một thành phố đặc biệt ở đây, trong đồi núi chập chùng Ngo này. Những “kẻ chơi lớn”, trí lớn, cảm lớn, thấy rộng, bao giờ cũng có tâm hồn bao la – chiến lược – viễn kiến khác người, và hành động táo bạo. Độ lớn của nó đến mức mà về sau khi đô thị Đà Lạt đã hình thành, định dạng, và ảnh hưởng của nó đã lan tỏa ra toàn bộ bán đảo Đông Dương đến mức mà chính quyền thuộc địa Pháp từng tính toán sẽ đặt thủ đô của Liên bang Đông Dương ở Đà Lạt. Nghĩa là một trung tâm hành chính, khoa học, giáo dục, tôn giáo, khảo cứu nông – lâm, và nghỉ dưỡng du lịch. Nếu những biến động chiến tranh ở châu Âu không xảy ra, không đảo lộn mọi thứ toàn cầu thì điều trên đã thành hiện thực.
Cái tư tưởng lấy Ngo và Sáng tạo đô thị sao cho độc đáo, giàu nghệ thuật, làm “chân đế” cho phố xứ này đã là vượt thời, băng trên mọi thời đại, và dữ dội, dù cách nay trên 120 năm. “Nhà cửa, công trình phải nằm dưới ngọn thông”, lại một nguyên tắc tầm nhìn dài xa mà xu thế kiến trúc hiện đại ngày nay trên thế giới gọi là Kiến trúc xanh, Kiến trúc sinh thái, Kiến trúc Nhân văn đó. Nội riêng ý tưởng hình thành một hệ thống chuỗi với sáu hồ nước trong rừng thông, bằng ngăn suối và ôm giữ các thung lũng đầy Ngo ở bên trên để tạo sinh cảnh thơ mộng và cân bằng nhiệt cho thành phố, hay giữa trái tim của đô thị phải có một hồ nước lớn làm “trái tim thành phố” (từ đó hồ Grand Lac/Xuân Hương ra đời) để Ngo và kiến trúc soi bóng đã là chưa từng có trong lịch sử ý tưởng đô thị trên lãnh thổ Việt Nam.
Người ta kiến tạo đô thị bằng khoa học và sự nghiêm cẩn. Nên đã phân khu chức năng rất sâu kỹ, rằng đâu là cảnh quan, đâu là rừng không được đụng vào, đâu là khu bất kiến tạo, đâu là khu quy hoạch công sở, đâu là trường học, nhà thương, đâu là những khu thương mại, chợ búa, đâu là khu dành cho người Việt, đâu là khu dành cho Tây, kể cả xác lập dành không gian cho đâu là vùng không gian cho thổ dân người Lạch bản địa để họ thích ứng với sinh tồn kiểu họ, đảm bảo sinh kế, văn hóa, và họ thấy thỏa mái… Mọi thứ đều đâu ra đó, không như ở Đà Lạt của hiện tại (năm 2025) chỗ nào cũng khu dân cư, cũng thấy công sở, cũng có khách sạn, cũng thấy thương mại, cũng có hàng quán ăn nhậu, cũng đầy người… “Độn” vào như thế ở mọi khu vực. Một cấu trúc khoa học đô thị bị đổ gục, một hình thái đô thị đặc trưng bị tan vỡ, nhiều thứ trật tự bị đảo lộn, xới tung lên… Và, một đống bế tắc đã xuất hiện, đơn cử nhỡn tiền nhất là hệ thống khách sạn đông đặc không có bãi đậu xe và hệ thống đường phố diễn ra kẹt xe…
Đà Lạt mà lệch đi khỏi tầm nhìn kia là không còn tư tưởng, sẽ lạc đường, và “mất giá” ngay. Khi “mất giá” thì những mỹ cảm mà người đời yêu phục kia ta sẽ không còn nữa. Cao nguyên Liang Biêng (Lâm Viên) thì muôn đời vẫn ở đây, không thể di dời, vẫn cao độ 1.500 m cách mặt biển.
Quỹ kiến trúc đô thị Pháp cổ cùng rừng Ngo là “Giá” của Đà Lạt. Nghe nói trong lịch sử, từng có quan chức của Đà Lạt cho chặt một cành Ngo xà ra phía đường ở đèo Prenn để đón vị quốc trưởng mà bị ngài triệu hồi để khiển trách vì tội hại Ngo khi không đáng. Nhưng đó là những năm tháng mà cơm áo không căng, ép thúc bá tánh.

Vùng sơn thủy Dankia – Suối Vàng nằm xa cách Đà Lạt hiện tại còn mang vẻ đẹp cao nguyên nhờ chưa bị đô thị hóa. Ảnh: Nguyễn Hàng Tình.
Những cú nhói sinh học
Đó là cái thời mà hoạt động đào đãi thiếc – một loại khoáng sản có giá trị thương mại, có ký hiệu nguyên tố hóa học là Sn diễn ra khắp những núi đồi gần xa, những năm 1980, 1990. Thiếc bao giờ chẳng ở dưới gốc thông, nên một thời trùng trùng điệp điệp những đồi thông ở Đà Lạt xuất hiện dày đặc địa đào, hầm mỏ của dân đào đãi.
Trời ạ, cảnh tượng sôi động giữa công khai và bí ẩn, giữa chui rúc và phơi trần, rượt đuổi và đối phó… như “Cinema” giữa đời thật ấy với những đoàn quân thiếc tặc là từ chính cư dân của phố núi, cùng các nơi tụ về diễn ra suốt mấy chục năm trời. Tôi chỉ là thằng lãng tử lạc trời tới đây với chiếc máy hình chụp ảnh dạo cho du khách cùng chụp sự thơ mộng của rừng thông, nhưng hình ảnh đỏ lòm của đồi núi thành bờ bãi nham nhở ở Phước Thành, Măng Ling, Suối Vàng, Đưng K’nớ, Đa Thiện, Tùng Lâm, Thánh Mẫu, Suối Tía, Hòn Bồ, Nam Hồ, Trại Mát, Dà Sa, Dà Chais, Dà Cháy, Darahoa, trên lưu vực hồ Chiến Thắng,… làm lặng người, khó hiểu. Biết bao nhiêu là Ngo đã bị kết liễu, hay ngã đổ bởi sạt đồi lở hầm từ “thiếc tặc”. Tôi điếng người bởi thiếc như những lần chứng kiến người ta đi khai thác Colophan trên cây Ngo vậy. Hoạt động khai thác mủ ngo – nhựa thông (Colophan) để xuất khẩu, diễn ra trên nhiều cánh rừng của xứ Ngo xinh đẹp. Dân sinh học xem nhựa, mủ là “máu” của cây. Tôi thì phong nó thành “Mật”, “mật Ngo”. Loài người luôn ưa “mật” của các loài khác, và có rất nhiều kiểu hút mật, để mang lại cơm áo, bạc tiền cho mình.
Cùng đó là bao cảnh người ta đi cưa hạ và xẻ gỗ Ngo lậu phi pháp ở khắp hốc rừng nào có thể. Đâu đó có những người xem xẻ gỗ Ngo trộm là một “nghề”, chuyên nghiệp lẫn thời vụ. Rừng thì của quốc gia. Và đây đó, giữa những rừng Ngo kia thi thoảng chúng ta dễ dàng gặp những “xưởng cưa” đặt ngay trong rừng với bên ngoài đầy ngo cây đưa về chất ngổn ngang.
Gọi tên kiểu gì cho những kiểu xơi tái Ngo như thế ngoài thế này: “Trời bỗng đưa đẩy họ thành kẻ phá sơn lâm hồn nhiên vì cơm áo”. Thiên hạ “ra tay” với Ngo ở tư cách thực vật rừng mà không tích hợp quĩ đô thị vào đó, nghĩa là “Ngo không có kiến trúc” đi cùng, không trong các khuôn viên biệt thự, công trình xây dựng, đường phố, công sở, nhà dân…
Rồi sau đó, phổ biến giữa lòng đô thị, trong các biệt thự Pháp cổ mà chúng ta không hiểu bằng cách gì những người nhập cư mới trở thành “dân” của phố núi này có thể “cất được thêm nhà”, thậm chí nhiều nhà trong khuôn viên ấy là thi thoảng những cây Ngo chết đứng đột ngột. Chết tức tửi. Người ta đã ken bóc đi một vòng khép lớp vỏ ngoài của nó nơi gần gốc để “chặt đứt” đường dẫn nước cùng dưỡng chất lên nuôi cây. Và rợn người hơn nữa là khi cái ác được “nâng cấp” lên hơn, những “cư dân bất ngờ” của mọi khuôn viên vốn là biệt thự cổ ấy dùng xi lanh để chích thuốc độc – thuốc diệt tế bào thực vật hàm lượng cao – vào cây, hoặc đổ nguyên nguồn độc kia vào gốc cho cây héo lá và chết dần để rồi sau đó người ta làm giấy xin được hạ Ngo để “phòng tránh gãy đổ gây chết người”. Ở nơi các vùng ngoại vi, Dà Sar, Da Nhim, Suối Vàng, Tà Nung, Núi Voi… những năm qua muôn ngàn cảnh xâm lấn rừng và tàn sát Ngo để mở vườn, rẫy, làm du lịch… phơi ra trước mắt bá tánh để chỉ cần gọi chung là “băm nát” mà không phải diễn dịch thêm. “Máu rừng” chảy khắp nơi.
Từ “Rừng cấm quốc gia”, sau 1975 tiếp tục xác lập, rừng Ngo ở Đà Lạt sau đó rơi xuống là “Rừng đặc dụng”, và gần nhất là rơi xuống thành “Rừng phòng hộ đầu nguồn và cảnh quan môi trường”. Tính đặc biệt không còn thì ứng xử sẽ tương thích với độ “bình thường” đó của rừng. Khi cơ chế bảo vệ khác đi thì tiện cho vung tay, “tung hoành”, thay đổi, lý giải.
Mùi khét của “Bất động sản”
Là “Ngo” giữa lòng đô thị, “Ngo có kiến trúc”. Là trùng trùng cảnh dọn dẹp Ngo để nhét công trình, nhà mới vào không gian đã định hình đô thị kia. Bỗng, bốc lên thời đất đai là hàng hóa, là thị trường bất động sản xôm tụ qua hai chục năm trở lại đây, với những nóng, sốt, cháy rang tâm trí người đời. “Đất”, địa ốc, nó làm đảo điên tất cả những gì đã tạo nên bản sắc của một đô thị cao nguyên độc đáo. Là lúc Đà Lạt lao vào với “bất động sản”. Đất ở những thành phố khác còn “hóa vàng” huống chi đất ở “Thiên đường” (du lịch).
Từng tấc đất “lẩy” từ rừng Ngo kia ra đều quá sinh lời, nên ai, đâu cũng tậu, giữ, kiếm, đầu cơ, hoặc lấn, chiếm. Cứ có không gian (những miếng đất) cái đã, rồi trước sau cũng sẽ cất được nhà, bằng nhiều cách. Cứ thế, và cứ thế, và trôi lăn. Những cánh rừng Ngo nội đô bị “bắn” hạ dần, tỉa từ ít đến nhiều rồi mất luôn ở nhiều ngọn đồi, khu vực. Không những nguồn cây Ngo mất mà rất rất nhiều ngọn đồi cũng biến mất luôn, hạ cốt, san bằng để xây dựng cho tiện. Đến giờ gần như không còn rừng ở nội đô nữa. Nó được hay bằng khu dân cư, khách sạn, hàng phố, hàng quán… Từ điệp trùng rừng giờ Đà Lạt điệp trùng bê tông. Suốt 100 năm không có căn nhà, khách sạn nào được phép xây vượt quá bốn tầng cao, thì giờ đây “mưa” khách sạn, nhà ở chọc trời, đạp lên tầng ngọn Ngo, xuất hiện khắp nơi rồi.
Vỗ tay cho bê tông và gạch đá. Cứ để cho phố phường nhớ Ngo. Ai bắt bắt nó phải “nhớ Ngo”. Trên đời này thiếu gì thứ để nhớ mà phải “nhớ Ngo”?. Ngo chỉ là một loài thực vật, một loài cây thuộc họ lá kim. Cứ để cho Ngo “chết” cùng với những tác phẩm kiến trúc Pháp thời thuộc địa ấy. Của “ bọn thực dân” tạo ra thì có gì mà đẹp, đáng giá, mà phải giữ, hay phải tự hào! Kiến trúc Pháp thì cũng như nhà ba gian hai chái truyền thống người Việt, như hệ thống nhà phân lô hình hộp đang ngợp tràn khắp lãnh thổ Việt Nam ở thế kỷ XIX từ đồng bằng đến miền núi và vẫn đang khởi công xây thêm hằng ngày. Dọn sạch, lấy đất trống, ta xây nên những gì theo ý ta. Nước nhà thống nhất, kiến trúc quốc gia được tự do, thỏa mái, chúng sinh ai muốn nghệ thuật nhà cửa kiểu nào thì cứ làm theo kiểu đó. Tinh hoa hay chuẩn mực kiến trúc làm cái khỉ khô gì, cả xã hội “dzui”, ai cũng có chỗ chui ra chui vào là được rồi. Nơi nơi trở thành “nồi lẩu kiến trúc”.
Không ai nghĩ một ngày trên lưu vực của mọi con suối ở phố núi đã lấp đầy bê tông, nhà cửa đã mọc khít dày hai bên theo suốt chiều dài của suối. Xứ núi đồi mà suối thiên nhiên đều đã thành hệ thống “cống”, teo tóp với chức năng thoát nước thải dân cư. Cũng không ai có thể tưởng tượng được là ở không gian của những chuỗi hồ quan trọng như Mê Linh, Vạn Kiếp, Đội Có… nhà cửa mới đã mọc lên như nấm, vây kín, và đều “hợp pháp”. Mọi chỗ đều “phát triển” đô thị, đến mức không chỗ nào không thấy bê tông mọc lên và chẳng hướng nhìn nào còn là vùng không gian “bất kiến tạo” nữa. Ngay như ngọn đồi “thiêng” lừng danh nhạy cảm như Đồi Cù nằm ngay trung tâm phố mà người ta còn dám thi công xây dựng một tổ hợp lưu trú và chơi bời khổng lồ trên đó, nuốt chửng luôn cả tầm nhìn về hướng đỉnh núi Liang Biêng cao nhất thì đủ thấy mãnh lực của đồng tiền và độ lạnh của máu người đã đến cỡ nào rồi.
Giữa một thời buổi mà việc xây dựng khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ, homestay dễ thấy hơn trồng rừng. Đất nào còn mà để trồng rừng! Rừng còn bị lấy đất. Người ta nói về địa ốc, chứ đâu nói về rừng và cây. Người ta nói về sự “hoành tráng” chứ đâu nói về sự tinh tế, tử tế, hay mát lành. Người ta nghĩ “hiện đại” là bê tông chọc trời, hàng phố san sát, rộn rã, tưng bừng mà không biết đó là thứ thô sơ, ít cần thiết lập và ít suy nghĩ nhất. Lòng người vui khi nói về “tiền” tươi, thay vì màu xanh. Đà Lạt “giàu sang” là nhờ “xanh” chứ không phải bừng trắng bê tông. Người ta cứ nghĩ gạch đá bê tông, khách sạn là “làm” ra tiền. Nhưng họ không thấy sự làm mất tiền nhiều hơn bởi thế. Làm rớt giá Đà Lạt, lụi tàn dần “Tiểu Paris” ở Đà Lạt. Chưa bao giờ người ta có công trình nghiên cứu khoa học rằng ở Đà Lạt bao nhiêu sạn là “đủ”. Cũng chứ bao giờ người ta có công trình nào nghiên cứu: đâu là chiến lược bảo vệ tài nguyên sống còn của Đà Lạt, nguồn sữa nuôi “du lịch” Đà Lạt. Người ta hội họp rất nhiều nhưng ít thấy những “sản phẩm” thiết thực, chiến lược, hữu dụng cụ thế cho xứ sở, muôn dân, như việc làm sao để giữ được giá trị cốt lõi của Đà Lạt, để luôn hấp dẫn và đặc biệt.
Từ “quét sạch” Ngo, hạ cốt, biến cải, san lấp núi đồi khắp nơi đã khiến Đà Lạt thay đổi toàn bộ cấu trúc thiên nhiên. Từ thay đổi cấu trúc thiên nhiên, đã dẫn đến thay đổi dần dần hệ nhận thức, quan điểm của con người về vai trò núi đồi, rừng, xã hội, không gian sống, nhà cửa, kiến trúc, lối sống, cách kiếm cơm áo, giao tế, ứng xứ, văn hóa, nghệ thuật… theo hướng thực dụng và vật chất hóa. Mất Ngo, “tan rã” dần tất cả! Từ “Thành phố nằm trong rừng” thành… “Thành phố có những dấu tích về rừng”. Phố núi mà cũng không còn không gian cho đất thở, “cơ hội” cho cây cỏ.
Nhói do hành động “vật lý” – công khai rồi. Mà nhói đến cả tâm hồn nhân gian.
Thì cứ xới tung cả cao nguyên Liang Biêng lên đi, ai mà can gián nổi. Các người cứ ưu tiên cho gạch đá bê tông, thay vì Ngo đi.

Ngôi biệt thự cổ nằm dưới bóng Ngo có kiến trúc tuyệt đẹp hiền hòa này đã bị đập bỏ rồi. Ảnh: Nguyễn Hàng Tình.
Chút “Lặng”
Đà Lạt sang trọng là nhờ thanh vắng chứ không phải nhờ “ồn” như Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng. Đà Lạt hấp dẫn là nhờ “sâu” chứ không nhờ đồ sộ, diêm dúa, màu mè, đồng bóng, và khoe khoang. Đà Lạt hấp dẫn là nhờ mọi hàng phố đều lùi vào mặt đường chứ không phải đề thò ra như kia. Đà Lạt mang phẩm chất “đô thị Tây”, thì không nên thêm “phèn” vào nó. Đà Lạt mang “gen” thành phố núi đồi với nhà cửa nương theo đường đồng mức của núi đồi, giữ nguyên đặc trưng sinh động của địa hình cao thấp, chứ không phải tất cả bỗng cùng nhau san bằng núi đồi, làm phẳng ra. Đà Lạt đẳng cấp là làm cho người ta thấy cảm giác thanh bình chứ không phải lao nhao. Đà Lạt không cần bốc phét.
Đừng đẩy Đà Lạt trở thành một ‘nồi lẩu kiến trúc” lớn, khi mà kiến trúc của nó có bản sắc riêng, và đạt đến độc đáo, đặc thù! Khi mà đường sá cố thành đại lộ và mọi công trình trở nên “hoành tráng” thì tỷ lệ xích trước thiên nhiên đã bị phá vỡ hoàn toàn. Hình như thiên hạ không biết, với Đà Lạt, “hoành tráng” và diêm dúa tức là “bình dân”. Là từ bỏ ngôi vương, là biến sự đặc biệt, “số 1” của mình xuống là “bình thường”, là “bằng” như mấy trăm đô thị trên cả nước.
Núi đồi đục khoét, hạ cốt, lan tràn, vỡ tung. Tha nhân ơi, trách chi thời nay, vào mùa mưa năm nào lòng người cũng hồi hộp bởi sạt lở khắp nơi, đất đẩy trôi nhà, người dìm trong đất. Và đó đây, lũ lụt ngập phố này, đường nọ. “Lên non cao mà còn sợ nước triều dâng”, chuyện chưa từng trong lịch sử xứ sở.
Đà Lạt cũng không cần mầy mò để tiến lên, mà tự nó đã có rõ một Con đường, đã tiến lên xưa nay, mà bất cứ đô thị nào ở Việt Nam cũng “học” được một cái gì đó từ Đà Lạt, trong kiến tạo đô thị và cách làm một đô thị có giá trị, được tôn trọng, đáng sống, và giàu có.
Hình như Đà Lạt “mất” vì người ta không có năng lực để làm Đà Lạt từng ngày trôi qua không ngày càng mang dáng vẻ của “Sài Gòn”.
Thâm ý “nào đó”?
Chỉ có một “Đà Lạt” ở Việt Nam trong cái tổng giá trị tích hợp về nó. Thành phố đặc biệt thì phải có tầm nhìn đặc biệt và lãnh đạo phải có khả năng đặc biệt. Không thể lèo lái Đà Lạt như các thành phố khác trên lãnh thổ Việt Nam. Trí thức tinh hoa đã chỉ ra mãi như thế cho Đà Lạt nhưng người ta không để ý hoặc lĩnh hội.
Chiến lược ở Đà Lạt là đã đến lúc phát triển đi vào chiều sâu, bằng con đường “phát triển tiếp nối”, nâng giá trị đô thị này lên, từ cái “gen” của nó là Rừng ngo – Núi đồi – Kiến trúc chan hòa cùng Quỹ kiến trúc đô thị vô giá làm nên danh tiếng, chứ đừng “đập nát” để làm lại một Đà Lạt “lạ”. Nhưng thiên hạ không biết như thế, và đã không làm được. Nên cứ “làm” như mọi đô thị khác trên đất nước này, dàn ngang đổ bê tông xuống núi đồi và cũng gọi đó là “phát triển”. Thật tội nghiệp và suy nghĩ “thô sơ” đến mức gọi một đô thị cứ thêm “được” nhiều nhà cửa là “phát triển”, đường phố cố mở rộng như đại lộ là “đẳng cấp”. Vậy Hội An, Huế kia hãy “học” Đà Lạt ngày nay mà đập vỡ ra để lấy mặt bằng xây một đô thị to mới bên dòng sông Hoài, sông Hương đi để gọi ấy là “phát triển”, trí tuệ, “hiện đại”, và đẳng cấp. Làm giàu trên đặc thù của mình, lợi thế của mình, di sản của mình, và không biến mình thành “bình thường” hoặc “xoàng” như các đô thị khác, nhất là không tước mất cơ hội của thế hệ mai sau thì mới gọi là phát triển. Người ta quên mất, Đà Lạt là đô thị sinh thái, là thành phố di sản_di sản kiến trúc thuộc địa. Không phải đơn giản mà Ấn Độ, Sri Lanca, Indonesia, Myanmar, Hong Kong, Macao, hay nhiều nước Châu Phi, Trung Đông, và Trung lẫn Nam Mỹ… người ta giữ lại nguyên vẹn những đô thị mà người Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha buổi “thuộc địa” ấy đến xây, rồi để lại. Nó là một phần của sự thật lịch sử diễn ra trên xứ sở, là ký ức, là buồn vui, là bài học, hoặc “bài rút kinh nghiệm”, và là “tài nguyên du lịch”… Ở Đà Lạt, đặc trưng “thuộc địa” ấy chưa hề nghe thấy ai có chủ trương khước từ, hủy dẹp nó đi cả, nhưng sự rơi rụng, đập bỏ dần dà quỹ kiến trúc đô thị ấy, cùng với sự để lấn chiếm không gian, làn sóng đan cài nhà cửa xây mới vào những quần thể kiến trúc cổ đó làm dân gian đặt dấu hỏi nọ kia. Và cũng chính đổ vỡ cấu trúc đô thị, hình thái đô thị cùng quỹ kiến trúc Pháp cổ dĩ nhiên khiến bá tánh cảm nhận được có vấn đề ở trí tuệ của các thế hệ điều hành địa phương lâu nay, hoặc có gì đó không ổn về sự thành tâm với quá khứ, di sản, trong việc kiến tạo tương lai của Đà Lạt.
Nên chỉ có thời nay tha nhân mới thấy đâu đó có mảnh rừng Ngo còn ở vùng ven thì hiện ra những hàng rào kẽm gai hoặc bê tông dài lê thê rào lại khắp chu vi ngọn đồi đó. “Rừng là của toàn dân” mà! Thứ hình ảnh “khủng khiếp” chưa từng nghĩ có thể thấy ở xứ Đà Lạt, nó khủng khiếp vì không chỉ để phá thiên nhiên, cát cứ cảnh quan mà tạo hóa tạo ra cho nhân loại chung hưởng bình đẳng, mà nó phá cả Văn hóa của xứ sở này. Nghe đâu người ta còn dự tính sẽ “đô thị hóa” cả vùng còn tương đối rõ cấu trúc rừng ngo – vườn canh nông – cư dân nông nghiệp ở Xuân Thọ nữa kìa.
Chưa bao giờ người ta có điều nghiên rằng, với Đà Lạt phát triển bao nhiêu khách sạn là vừa và nâng đẳng cấp nền du lịch của xứ sở lên, thay vì là ngày càng hạ cấp, bình dân, tận thu vặt đến lạc lối và rồi phá hỏng cả một xứ sở.
Thế nhân thích thì cứ “cởi” luôn “chiếc áo Ngo” đó ra khỏi thân thể xứ sở này đi. Dẫu cho danh hiệu “Thành phố ngàn thông” cả trăm năm nay người đời dành cho Đà Lạt đã xác lập và thừa nhận giá trị đặc trưng của thành phố này. Cái đặc trưng mà không thành phố nào trên lãnh thổ Việt Nam này có, thậm chí cả Đông Nam Á.
Bởi bê tông nhảy múa. Nên nỗi buồn tôi cũng nhảy múa. Không để “đọ” lại với bê tông hay bất cứ thứ quyền lực lớn, bé, nham nhở nào, nhưng vì cuộc đời này cần phải có Nỗi buồn và cái Đẹp, mà cái đẹp từ lao động chăm chỉ, sáng tạo, chăm chút, tâm huyết… ấy chính là cái đẹp tử tế, đáng giá. Nó như Trịnh Công Sơn làm ra bản nhạc về Đà Lạt mà ở đó ông ta phải cúi đầu trước phố xứ này:
Người đi một mình đồi dốc nghiên xuống
Người đi một mình vực sâu gọi tên
Còn đây bão lên, còn đây tiếng ca.
Nó phải “xứng” như nó vốn đạt đến, vốn là, thì mới còn “tiếng ca”.
Người ta thì chỉ muốn khai thác, ăn vào cái “danh” của Đà Lạt, bào cái Nostalgia kia, giá trị hoài niệm lây lất, dù nó đang chỉ còn như một cái xác của buổi ngọc ngà ấy.
Ngo, “nàng” tưởng làm đẹp cho xứ sở là được nâng niu và an nhiên vi vu trong gió lộng được à. Sau vài chục năm, tôi nhìn lại xứ mình đang sống, mà giật mình toàn diện. Từ “Cả rừng thông hát lên” đến… “ Cả rừng thông thét lên”!
Tôi thương tất cả những tâm hồn từng ngã gục vào cõi mơ ấy của Đà Lạt, cả cái ông nhạc sĩ Trần Kiết Tường từ miền châu thổ hạ nguồn, xứ Cần Thơ xa xôi kia, bởi lời nhạc của ông:
Đà Lạt đồi núi chập chùng
Đà Lạt trời mây nước mênh mông.
Nguyễn Hàng Tình (theo Giai phẩm xuân TGHN 2025)
Ngày đăng: 17/1/2025
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này