
10:59 - 22/01/2025
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: Đổi mới công nghệ để ‘chống chịu’ đòn thương mại
Việt Nam thuộc khu vực Đông Nam Á, nơi có tỷ lệ thương mại trên thu nhập bình quân đến 90%, gấp đôi mức bình quân toàn cầu, được dự báo là sẽ chịu ảnh hưởng trong xu hướng bảo hộ thương mại có chiều hướng gia tăng khi ông Donald Trump đắc cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan ghé thăm một gian hàng khởi nghiệp tại Cuộc thi Dự án/Ý tưởng khởi nghiệp Xanh – Phát triển Bền vững năm 2024. Ảnh: Khưu Dũng.
Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nếu có chiến lược đổi mới công nghệ hợp lý thì Việt Nam không chỉ hóa giải được nguy cơ “chịu đòn” thương mại mà còn có cơ hội vươn lên nhóm sếu tốp đầu.
Ông trump gây lo lắng
– Ngay sau khi ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ các nước đã phải ráo riết chuẩn bị cho thời kỳ mới, Trump 2.0. Điều gì ở ông Trump khiến cho người ta lo lắng đến vậy?
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: Trước hết, việc ông Trump đắc cử đã gây lo lắng cho nhiều nước trên thế giới, kể cả những đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Mọi người lo lắng vì từ nhiệm kỳ trước ông Trump đã có chủ trương “Nước Mỹ trên hết”, đã áp dụng một loạt các biện pháp làm tăng hàng rào thương mại đối với các nước khác, hoặc dỡ bỏ đi những ưu đãi, những cam kết Mỹ đã từng có với các nước khác, kể cả với các đồng minh của họ. Một trong những động tác đầu tiên khi ông Trump lên (ở nhiệm kỳ đầu – PV) là rút khỏi TPP (Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương) mà chính phủ ông Obama vừa thỏa thuận xong với các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Việc này đã gây một chấn động rất lớn.
Rất may là lúc đó có Thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo – cùng các đối tác khác trong TPP cũ quyết tâm thúc đẩy đàm phán để hình thành nên CPTPP, từ CPTPP này thúc đẩy quan hệ với Mỹ, đã hạn chế được phần nào các tác động tiêu cực. Nhưng rõ ràng CPTPP không thể có sức mạnh bằng TPP với sự tham gia của Mỹ. Về sau ông Trump cũng chấp nhận sáng kiến về châu Á – Thái Bình Dương, nhưng dù sao nó vẫn là cơ chế lỏng hơn, không phải là một hiệp định thương mại, không phải là những cam kết rất rõ ràng, được luật hóa ở các quốc gia về mặt liên kết kinh tế. Cho nên kể cả công thức Ấn Độ – Thái Bình Dương cũng có phần nào làm cho các nước yên tâm hơn, nhưng không đủ để đẩy liên kết châu Á – Thái Bình Dương thực sự vươn lên để tăng sức mạnh cho tất cả các nước. Trên thực tế, TPP không hề gây bất cứ thua thiệt gì cho Mỹ cả, nhưng ông Trump đã mang cách nghĩ của người đã kinh qua nhiều năm kinh doanh, một tỷ phú đã thành công về mặt kinh tế, vào áp dụng cho cả nước Mỹ thì nhiều khi tạo nên những thay đổi mà các đối tác khác phải chịu thua. Sau đó, Mỹ đã từng làm nhiều động tác khác nhau để nối lại quan hệ với châu Âu chẳng hạn, hình thành hiệp định giữa Mỹ và châu Âu, rồi xem lại NAFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ) cũ để hoàn chỉnh lại. Nhưng dù sao cũng không đủ để thay thế những cái đã bị mất đi trong nhiệm kỳ đầu tiên ông Trump làm tổng thống.
Trong tuyên bố tranh cử vừa rồi ông Trump vẫn tiếp tục đưa ra phương châm đó. Đặt trong bối cảnh kinh tế hiện nay, thị trường thế giới những năm vừa qua bị phân mảnh ghê gớm, các chuỗi cung ứng bị thay đổi kinh khủng đến mức nó làm cho người ta nghĩ rằng: “Toàn cầu hóa liệu có tồn tại nữa hay không?” Nếu tồn tại thì cũng bị phân mảnh quá mức. Trong khi thị trường rất cần kết nối với nhau để phát triển công nghệ, để đối phó với một loạt các thách thức mới từ công nghệ. Công nghệ mang lại nhiều cơ hội nhưng thách thức cũng nhiều không kém. Chẳng hạn, với AI (Trí tuệ nhân tạo), bên cạnh những mặt vô cùng tích cực và lớn lao đóng góp cho loài người, thì nó cũng mang lại lo lắng cho chính các nhà khoa học, những người đã góp phần phát triển AI. Họ lo ngại khi mà AI rơi vào tay kẻ xấu, dùng cho mục đích xấu thì sẽ tác hại vô cùng. Chính phủ các nước cũng vậy, một mặt vẫn khuyến khích phát triển AI, mặt khác cũng hết sức lo ngại, nên đã phải đưa ra những luật, những quy định để làm sao kiểm soát sự phát triển AI của nước họ. Những việc này rất cần sự chung tay, vì nó là sự phát triển chung của nhân loại.
Hay một câu chuyện khác là phát triển bền vững. Mỹ là một nền kinh tế lớn nhưng lại rút khỏi COP21 (Hiệp định chống biến đổi khí hậu thế giới ký tại Paris tháng 12.2015). Sau đó năm 2021 Tổng thống Joe Biden quyết định tái gia nhập thì nay ông Trump lại tuyên bố sẽ rút khỏi Hiệp định Paris lần nữa. Trong phát triển bền vững có yếu tố về năng lượng là rất quan trọng, các nước đều cho rằng cần hạn chế phát triển năng lượng dựa trên các nguồn không tái tạo được, thì giờ đây ông Trump lại khuyến khích khai thác các nguồn năng lượng này. Trong khi các nước khuyến khích năng lượng tái tạo thì ông Trump lại đi theo chiều ngược lại. Do đó, nó có ảnh hưởng rất lớn. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp Mỹ đang háo hức để đầu tư vào năng lượng tái tạo ở Việt Nam, nhưng ở ngay trong nước họ lại có xu hướng đi ngược như vậy.
Thứ hai, năng lượng tái tạo là điều mà rất nhiều doanh nghiệp họ đã đưa ra rồi, thành các quy chuẩn, không phải từ quy định của các nước mà của bản thân các doanh nghiệp, là sản phẩm phải dùng nguồn năng lượng tái tạo thì mới có thể xuất khẩu, có thể thâm nhập thị trường được. Nhưng nếu Mỹ không dùng những chuẩn đó thì các đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam để chứng minh bản thân sử dụng năng lượng tái tạo, với mục tiêu xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu, có thể sẽ có tâm lý hoang mang, khó xử. Các doanh nghiệp có thể sẽ bị đẩy vào tình huống phải đặt câu hỏi, có nên tiếp tục đầu tư vào năng lượng tái tạo hay không hay quay trở lại một phần không cần làm nếu hướng vào thị trường Mỹ. Trong khi, Việt Nam đã cam kết đến 2050 là Net Zero (phát thải ròng bằng 0), nhưng lại có một mảng doanh nghiệp lại thấy không cần thiết phải làm tái tạo năng lượng, nó sẽ làm cho sự chuyển động chung của nền kinh tế bị xáo trộn. Việc ông Trump đắc cử với những chính sách như thế sẽ tạo ra những lưỡng lự rất khó xử.

Tại tất cả các gian hàng trưng bày tại khuôn viên triển lãm của Mekong Connect 2024, yếu tố xanh – tuần hoàn – chống biến đổi khi hậu đều được đưa lên hàng đầu. Ảnh: BSA Media.
– Như vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải ứng xử ra sao với tình huống “xanh hóa lưỡng lự” này?
– Tôi vẫn mong và vẫn thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục các cố gắng xanh hóa, tiếp tục theo đuổi kinh tế tuần hoàn, tiếp tục những cái chúng ta đang làm và làm thêm những cái chúng ta chưa làm được. Bởi vì, yêu cầu xanh hóa, nói cho cùng sẽ là yêu cầu của tất cả. Ông Trump không yêu cầu doanh nghiệp Mỹ, nhưng doanh nghiệp Mỹ khi đặt hàng nước ngoài sẽ yêu cầu xanh hóa, vì đối với họ, luật của chính phủ là một chuyện, nhưng luật với người tiêu dùng, yêu cầu của người tiêu dùng lại là chuyện khác. Họ đặt ra yêu cầu xanh hóa là vì người tiêu dùng của họ. Cần nhớ rằng, tiêu chuẩn ESG (ESG được viết tắt bởi ba chữ cái đầu tiên của Environment/Môi trường, Social/Xã hội và Governance/Quản trị doanh nghiệp – PV) là do bản thân các doanh nghiệp đặt ra chứ không phải các chính phủ.
Mặt khác, Net Zero cần cho chính Việt Nam chúng ta, không phải vì thị trường bên ngoài mà vì chính chúng ta. Chúng ta đã bị ô nhiễm quá mức rồi, rất cần phải giải quyết vấn đề năng lượng tái tạo, thì mới đỡ đi vấn nạn: kinh tế tăng trưởng nhưng chất lượng cuộc sống, môi trường lại kém đi. Những cố gắng về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững mà không được làm tốt thì lại trở thành gánh nặng về y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân, chất lượng sản phẩm tiêu dùng. Chúng ta không thể hành động thiếu trách nhiệm bây giờ, rồi để lại di họa cho các thế hệ sau phải gánh chịu.
Khó tránh xáo trộn
– Quay trở lại với chuyện ông Trump, trong nhiệm kỳ đầu tiên ông Trump từng có những phát ngôn gay gắt về chuyện xuất siêu sang Mỹ của Việt Nam. Liệu trong nhiệm kỳ thứ hai này Việt Nam có nằm trong “tầm ngắm trừng phạt” của ông Trump?
– Nói thật tôi không nghĩ Việt Nam là mục tiêu chính để ông Trump nhìn vào. Ông sẽ nhìn vào các đối thủ cạnh tranh chính như Nhật Bản, và tất nhiên số một sẽ là Trung Quốc. Ông đã đe dọa tăng thuế đến 60%, nhưng thực hiện được đến đâu sẽ lại là chuyện khác. Ông tuyên bố vậy, nhưng khi thực hiện ông sẽ phải tính toán làm thế nào để có lợi nhất, đứng về góc độ kinh tế, thương mại hai chiều, cho ông và cho nền kinh tế Mỹ. Chắc chắn không có chuyện ông trừng phạt Trung Quốc để rồi gây hại cho nền kinh tế Mỹ, kể cả lợi ích của Mỹ trên thị trường Trung Quốc cũng vậy, ông sẽ không buông bỏ. Ông Trump sẽ dung hòa theo cách nào đó.
Đó là cách ông ứng xử với các đối tác lớn, còn với Việt Nam thì sao? Chúng ta cần phải nhớ rằng ngay từ nhiệm kỳ trước ông đã có một thông điệp gay gắt vì xuất siêu sang Mỹ quá nhiều. Trong các nước đang phát triển Việt Nam được tiếng là khai thác thị trường Mỹ tốt, thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Mỹ tốt. Nhiều nước thậm chí đã nhìn vào Việt Nam như một hình mẫu, một tấm gương. Đó có thể coi là thành công của chúng ta. Nhưng bây giờ thành công đó lại trở thành nguy cơ “chịu đòn”.
Việc ông Trump lên gây xáo động thì có thể có ở một chừng mực nào đó ở Việt Nam. Không thể tránh được. Bởi vì đó là thông điệp không chỉ cho Việt Nam mà còn cho các nước đang phát triển khác: “Việt Nam đang có vai trò khá quan trọng với Mỹ trong một số lĩnh vực nhưng tôi vẫn sẵn sàng “đánh vào” nếu như không đáp ứng được các yêu cầu của tôi về cân bằng thương mại”.
Đổi mới công nghệ
– Vậy Việt Nam sẽ phải xoay xở thế nào?
– Theo tôi cách tích cực nhất để giảm xuất siêu là tăng nhập khẩu từ Mỹ chứ không phải giảm xuất khẩu sang cho họ. Tất nhiên, chúng ta sẽ có khả năng và nhu cầu tăng nhập khẩu từ Mỹ. Bây giờ, chúng ta xuất siêu sang Mỹ và châu Âu nhưng chúng ta nhập siêu rất nhiều từ ba đối tượng chính là Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN. Như vậy, cũng không hợp lý. Nếu nói thẳng thừng thì giai đoạn hiện nay Việt Nam cần công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phát triển công nghệ cao vì đó là những ngành hướng tới quan hệ nhập khẩu những đầu vào cần thiết hoặc công nghệ cần thiết từ Mỹ, châu Âu, Nhật Bản hơn là từ Trung Quốc, Hàn Quốc hay ASEAN.
Việt Nam nên gia tăng mời gọi các nhà đầu tư từ Mỹ, nên tăng cường thúc đẩy các dự án đầu tư vào những lĩnh vực chúng ta chưa có. Kể cả những lĩnh vực đầu tư làm tăng hàng xuất khẩu của chúng ta sang Mỹ, nhưng nếu nó từ nền tảng nhập khẩu từ Mỹ vào thì đây sẽ không phải là câu chuyện Việt Nam xuất siêu sang Mỹ mà Việt Nam đang giúp cho các công ty Mỹ vận hành tốt hơn. Tức là vì lợi ích của Mỹ chứ không chỉ riêng cho lợi ích của Việt Nam. Trên thực tế những dự án chúng ta làm như vậy giai đoạn đầu, hoặc mang tính chất gia công, thì lợi ích của bên đặt hàng lớn hơn nhiều so với lợi ích của chúng ta.
Trước đây tôi cũng đã từng tranh luận với các công ty Mỹ, khi họ nói rằng Việt Nam xuất siêu quá nhiều. Tuy nhiên, tôi nói rằng Việt Nam chủ yếu xuất siêu bởi các công ty Mỹ đặt hàng ở Việt Nam. Chính Nike, chính các công ty lớn trong ngành dệt may, giày dép của Mỹ là những đối tác của Việt Nam sang Mỹ, người được hưởng là họ chứ không phải Việt Nam. Tiếng là Việt Nam xuất siêu nhưng phần Việt Nam được hưởng trong tất cả giá trị xuất khẩu của họ thì chỉ có chưa tới 10% lợi ích để lại ở Việt Nam, còn hơn 90% của họ. Do đó, một mặt chúng ta cần tăng diễn ngôn để giải thích làm rõ chỗ này, mặt khác chúng ta vẫn phải tăng thực tế nhập khẩu từ Mỹ.
Thực sự, tôi vẫn e ngại, bây giờ chúng ta vẫn chỉ nhìn vào giá cả, nhập từ Trung Quốc giá rẻ hơn bao nhiêu, Hàn Quốc rẻ hơn bao nhiêu, nhưng cái rẻ liệu có thắng được cái bền và trình độ cao của công nghệ chúng ta đang hướng tới không. Trước đây chúng ta là nền kinh tế thu nhập thấp, rồi trung bình thấp, nhu cầu của chúng ta về những thiết bị, công nghệ hiện đại chưa cao, nhưng giờ chúng ta muốn tăng tốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để trở thành nước trung bình cao và nước giàu thì chúng ta sẽ phải chấp nhận trả giá cao hơn để tiếp cận được với những công nghệ mới hơn, những ngành công nghiệp hiện đại hơn, và gia nhập được các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị lớn hơn. Không nên làm như bây giờ.
Bây giờ chúng ta nhận đơn đặt hàng của Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, kể cả Mỹ để làm gia công xuất khẩu nhưng như vậy chủ yếu vẫn sử dụng công nghệ của các nước ở tầng thấp. Theo mô hình đàn sếu bay của Nhật Bản, sếu đầu đàn là Nhật Bản, tầng thứ hai là bốn nước con rồng châu Á (Hong Kong (Trung Quốc), Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc)), sau đó họ chuyển đến đàn sếu bay tiếp theo, thì Việt Nam vẫn là những con sếu bay lẽo đẽo cuối đàn, và tiếp nhận công nghệ từ thứ hai trở lại. Như vậy, chúng ta không thể vượt lên được. Các nước vượt lên hàng thứ hai là những nước đã bứt sớm khỏi gia công để bắt tay với những nền kinh tế tiên tiến hơn.

Khi Samsung mở trung tâm R&D thuê hơn 3.000 kỹ sư Việt Nam thì tính chất dự án là hoàn toàn khác, ưu đãi phải khác.
– Làm sao để chúng ta có thể thu hút được những đầu tư chất lượng như vậy?
– Bản thân chúng ta phải chuẩn bị, phải tự tạo một vị thế để có thể tiếp nhận đầu tư từ những nhà đầu tư đến từ các nền kinh tế tiên tiến, nền công nghệ cao. Bắt đầu từ mặt thể chế. Hiện chưa có những thể chế thật rõ, những quy định thật rõ, là khi có công nghệ cao, khi có chuyển giao công nghệ, khi những nhà đầu tư đầu tư vào những công nghệ cao cấp hơn thì những nhà đầu tư sẽ được hưởng lợi như thế nào? Chúng ta đánh đồng gần như như nhau. Samsung làm ở Việt Nam, tiếng là công nghệ cao nhưng chủ yếu vẫn là gia công, lắp ráp. Vậy thì, dự án gia công, lắp ráp của Samsung không thể nào lại được hưởng cùng mức thuế, cùng ưu đãi với dự án của chính Samsung khi họ quyết định đầu tư R&D (Nghiên cứu & Phát triển) ở Việt Nam. Khi họ mở trung tâm R&D thuê hơn 3.000 kỹ sư Việt Nam thì tính chất dự án là hoàn toàn khác, ưu đãi phải khác. Tại sao lại ưu đãi dành cho gia công thuần túy tương đương với ưu đãi cho những dự án công nghệ cao dành cho những người phải có bằng kỹ sư trở lên được? Chúng ta phải có những chính sách rất minh bạch, phải kể tên từng dự án với những tiêu chí công nghệ rõ ràng, chứ không phải chung chung là công nghệ cao như vẫn đánh đồng lâu nay.
Ngoài ra, có thể xác định những đối tác mà chúng ta nhắm tới. Chẳng hạn, tôi đang rất cần ông A, B, C này cho nên tôi sẽ cho ông những cơ chế vượt trội so với những đối tác khác, không ai tị nạnh được. Tôi đang cần ông này, tôi muốn chọn ông này thì tôi có quyền trả giá cao hơn. Tôi cho rằng chúng ta trả giá cao hơn để được nhiều hơn trong tương lai chứ chúng ta không mất đi. Đó là cách tiếp cận về ưu đãi đầu tư. Còn về nhân lực, chúng ta sẽ phải chuẩn bị rất nhiều về nhân lực. Đào tạo trong nước. Đào tạo nước ngoài. Cộng tác với họ, hoặc mời họ vào, mở cửa hơn nữa cho các trường đại học, trường công nghệ của Việt Nam để mời những thầy, những chuyên gia giỏi về công nghệ vào giảng dạy về công nghệ cho Việt Nam. Chúng ta phải hỏi các nhà đầu tư đang định đầu tư vào Việt Nam, họ yêu cầu như thế nào, họ muốn hệ thống đào tạo như thế nào? Nếu họ không sẵn sàng cung cấp hệ thống đào tạo của họ thì chúng ta có thể thuê hệ thống đào tạo tương tự vào Việt Nam. Chẳng hạn, như mô hình Singapore lập các trường Việt Nam – Singapore.
Đó là các trường rất thành công, bởi vì họ dựa trên nhu cầu nhân lực của các nhà đầu tư, họ cần nhân lực như thế nào thì sẽ đào tạo như thế, nên đáp ứng rất tốt. Bây giờ, các ngành công nghệ đã phân ra những ngành khác nhau, với yêu cầu rất khác nhau, nên khi có nhà đầu tư đến ngoài chuyện họ cần bao nhiêu đất, làm ở chỗ nào, hay thuế má ra sao, thì rất cần hỏi họ rằng: “Ông cần nhân lực như thế nào? Ông có cơ sở đào tạo không? Tôi sẽ mời cơ sở đào tạo của ông sang đây đầu tư hoặc tôi thuê sang để đào tạo. Nếu ông không có thì ông có thể tìm các trung tâm đào tạo của khu vực mà họ có nền tảng đào tạo, đào tạo được ra những người ông tin dùng được thì ông mời sang đây cho tôi”.
Duy Khiêm thực hiện (theo Giai phẩm xuân TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này