23:52 - 09/02/2018
Tủ sách gia đình: Nhạc hợp xướng Sài Gòn trước 1975
Trên thế giới, quá trình phát triển hợp xướng luôn tồn tại song song hai nền nhạc: tôn giáo và thế tục. Có lúc nền nhạc này phát triển, nền nhạc kia suy thoái. Với đặc điểm lịch sử riêng, ngay từ buổi đầu của nền Tân nhạc Việt Nam đến trước năm 1975, nhạc hợp xướng ở miền Nam nói chung và ở Sài Gòn nói riêng phát triển nhiều trong lãnh vực nhà thờ. Sau năm 1975, nhạc hợp xướng thế tục phát triển mạnh hơn và mang tính chuyên nghiệp cao hơn. Kể từ sau thời kỳ đổi mới, nhạc hợp xướng nhà thờ phía Nam mới hồi sinh. Và cũng từ đó hai nền âm nhạc hợp xướng này phát triển song song như xu hướng của thế giới. Sài Gòn không chỉ là trung tâm phát triển về kinh tế của miền Nam mà còn về văn hoá, nghệ thuật cũng như âm nhạc.
Trước năm 1975, Tiến Dũng (một linh mục nhạc sĩ Công giáo tại Sài Gòn, tốt nghiệp tiến sĩ sáng tác ở Nhạc viện Santa Cecilia và là giảng viên của Nhạc viện thành phố trong 20 năm từ sau 1975) đã cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề Tôi viết ca khúc tiếng Việt. Trong đó tác giả dành hai chương (XX, XXI) để bàn về việc dùng hoà âm, đối âm, và những nhân tố khác để thích ứng bản văn tiếng Việt với bài ca nhiều bè. Tài liệu này được tác giả soạn để giảng dạy tại trường Suối Nhạc và đại học Minh Đức ở Sài Gòn từ cuối thập niên 60 của thế kỷ trước.
Đề cập gần đến một số vấn đề âm nhạc học trong sáng tác hợp xướng tại thành phố trước năm 1975 có một nghiên cứu mang tên: Hải Linh and his music (Hải Linh và âm nhạc của ông) của tác giả Nguyễn Xuân Thảo (một linh mục Công giáo) được công bố trên mạng internet. Trong tài liệu này tác giả đề cập đến cách dùng phức điệu và chủ trương dùng hoà âm theo lối “thoáng – mỏng”, cách dùng hợp âm trì tục của nhạc sĩ Hải Linh để tạo một nét riêng cho các tác phẩm hợp xướng Việt Nam của ông.
Năm 1974, Tiến Dũng cùng kết hợp với Trần Văn Tín (một nhạc sĩ người Công giáo, nhạc trưởng ngành Quân nhạc của chế độ Việt Nam Cộng hoà) cho ra đời cuốn sách Nghệ thuật chỉ huy tại viện đại học Minh Đức (Sài Gòn). Cũng trong năm đó, có phổ biến trong giới hợp xướng Công giáo một tài liệu mang tên Điều khiển ca đoàn của tác giả Phạm Hoàng Anh (là bút hiệu của Trần Văn Huyến, một nhạc trưởng Công giáo, thuộc ngành Quân nhạc). Tính cho tới thời điểm trước năm 1975 chỉ có hai tài liệu này bàn một cách có hệ thống và chuyên nghiệp về kỹ thuật hợp xướng. Tuy nhiên, các tác giả chỉ đề cập chi tiết đến kỹ thuật chỉ huy hơn là kỹ thuật biểu diễn hợp xướng. Những nội dung liên quan đến hiện trạng (về tổ chức, trình độ) của các ban hợp xướng, ca đoàn nhà thờ tại Sài Gòn chỉ được nhắc tới một cách rời rạc. Chẳng hạn, từ trang 86 đến 90 của cuốn Nghệ thuật Chỉ huy (gồm 92 trang), các tác giả đề cập đến những lỗi lầm thường mắc phải của các chỉ huy và ban hợp xướng tại miền Nam lúc đó. Mặc dù hai tài liệu này được trình bày như sách giáo khoa chuyên ngành, nhưng có đề cập chút ít đến nhạc hợp xướng Sài Gòn trong giai đoạn này.
Mãi cho đến năm 1999, linh mục Paul Văn Chi (tức Chu Văn Chi) bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ ngành Nghệ thuật âm nhạc tại đại học California State University (Hoa Kỳ) với đề tài Catholic Choral Music in Vietnam 1945 – 1975 [Thánh nhạc hợp ca Công giáo Việt Nam 1945 – 1975]. Luận văn này đã được xuất bản thành sách vào năm 2002 tại Oregon (Úc). Qua đó, tác giả chia quá trình phát triển nhạc hợp xướng Công giáo Việt Nam thành ba giai đoạn: thành hình (1945 – 1955), phát triển (1955 – 1970) và trưởng thành (1970 – 1975). Về thể loại và niên biểu và, do giới hạn của luận văn, việc nghiên cứu chỉ đề cập đến ca khúc hợp xướng tôn giáo và không nói đến sự phát triển của loại hợp xướng này sau năm 1975. Về không gian, tác giả không tập trung vào sự phát triển hợp xướng tôn giáo tại Sài Gòn mà nhìn tổng quát ở miền Nam. Chưa kể một số chi tiết còn mơ hồ, lẫn lộn như: cho rằng nền thánh nhạc hợp ca Công giáo Việt Nam được hình thành từ sự ra đời của bài thánh ca Hang Bê Lem (của Hải Linh) hay những bài thánh ca của Nguyễn Khắc Xuyên được sáng tác vào năm 1944 [13, tr.56 – 98], sắp xếp tác giả Phaolô Đạt và bài thánh ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời vào giai đoạn (1955 – 1970).
Trong giới hạn của một cuốn sách chuyên về nhạc hợp xướng Công giáo, tài liệu này được coi như khá đầy đủ về một hoạt động lớn của hợp xướng Sài Gòn từ lúc hình thành nền tân nhạc Việt Nam đến năm 1975.
Hơn nữa, do kỹ thuật thu âm ở giai đoạn này chưa được phát triển nhiều và kỹ thuật thu hình mới được khai sinh (vào khoảng năm 1965 – 1966), nên tài liệu âm thanh và phim ảnh về hợp xướng ở Sài Gòn cũng rất ít ỏi.
Cuốn sách góp phần tạo nên một cái nhìn toàn cảnh về nhạc hợp xướng ở Sài Gòn từ lúc hình thành trước năm 1975 đến nay, đặc biệt trong lĩnh vực biểu diễn và sáng tác, qua đó góp phần khiêm tốn vào những công trình đã và đang được nghiên cứu về lịch sử âm nhạc Việt Nam. Ngoài ra, nội dung của sách này còn làm nổi bật nét riêng của hoạt động hợp xướng ở Sài Gòn so với nhiều nơi khác trên cả nước, đó là sự phát triển song hành giữa nhạc hợp xướng tôn giáo và thế tục.
Nguyễn Bách
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này