10:32 - 24/01/2017
Quà của biển
Vừa đặt chân lên hòn Củ Tron, còn được gọi là Hòn Lớn, hòn đảo rộng nhất của Nam Du, có diện tích hơn 9km2, lòng tôi dạt dào xúc cảm khi nhìn thấy những con tàu neo đậu, những cư dân với gương mặt rám nắng, đậm chất biển.
Chúng tôi đi xuyên qua những gian hàng thuỷ sản, nào khô, mực, ốc… để đi vào khu nhà nghỉ. Một người dân ở đảo cho biết: “Năm 2014 du khách mới đổ ra Hòn Lớn. Trước kia, đảo này còn hoang sơ lắm”.
Ngay buổi chiều hôm đó, chúng tôi được tàu đưa đi thăm một số hòn trong quần đảo Nam Du. Tôi đặc biệt ấn tượng khi ghé vào Hòn Dầu (có lẽ vì hòn này có rất nhiều cây dầu). Hai người phụ nữ giăng võng giữa những cây dừa cùng cô bé lên năm niềm nở đón chúng tôi. Người phụ nữ trạc 30, giới thiệu mình là Duyên, có chồng làm nghề đi biển. Cô bé có đôi mắt tròn to, đen láy ngồi nép bên cạnh là con gái chị. Phụ nữ trên Hòn Dầu không ỷ lại vào chồng. Chồng chị đi biển bằng tàu gỗ. Chị đi câu mực trên chiếc thuyền nhỏ bằng một tấm mốp dày, được chằng buộc khéo léo. Con thuyền nhẹ tênh ấy chịu được những con sóng ven bờ. Chị nói một ngày câu được vài ký mực, bán được vài trăm ngàn đồng là đủ sống. Tôi vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy gần đó là một kho lộ thiên đựng những chai lọ, nilông bằng nhựa. Chị Duyên giải thích: “Để biển đẹp, những lúc không đi câu mực, chúng tôi tranh thủ chèo thuyền vớt rác. Rác đem về chị em tôi phân loại, gom lại thành đống, bán cho các chủ vựa. Lâu lâu, chủ vựa phế liệu mang tàu lớn ra đây gom rác. Mỗi chuyến như vậy chị em tôi cũng kiếm được vài trăm ngàn bỏ túi!”
Chị nhiệt tình đưa tôi lên rừng để tận mắt chứng kiến cây dầu trăm năm có thân hơn vòng tay ôm của chị. Chị leo dốc, đưa tôi đến chùa Tân Hỷ để cầu nguyện. Chị nói: “Chùa này của gia đình. Cứ chiều xuống là tôi lên chùa đốt nhang”. Tôi lặng người trước ngôi chùa phên vách trống trải, được lợp bằng những tấm tôn tạm bợ. Tôi hỏi “Chùa có nhiều người đến viếng không”, chị nói “Cũng thỉnh thoảng dân các hòn khác chèo thuyền qua thắp hương. Chùa tuy nhỏ, đơn sơ nằm trên triền núi Hòn Dầu nhưng rất linh thiêng. Ngư dân trước khi đi biển hay có điều gì hệ trọng thường chèo thuyền qua đây van vái”. Ước nguyện của chị là đi câu mực, lượm rác bán kiếm tiền để dành trùng tu lại ngôi chùa.
Con tàu tiếp tục cuộc hành trình, đi về Hòn Mấu. Với chiếc kính lặn, tôi lao mình xuống làn nước xanh biếc, ngắm bãi Đá Đen – bãi tắm đẹp nhất ở quần đảo Nam Du. Dưới đáy biển, có biết bao điều kỳ thú. Từng đàn cá lội tung tăng quanh rạng san hô xanh biếc. Những hòn đá xếp theo những hình khối lạ mắt, trông thật kỳ vĩ. Tôi có cảm giác như có hàng vạn tai nấm linh chi dưới làn nước biếc. Nhiều loài sinh vật kỳ bí, lộng lẫy tôi không biết tên đang sống hạnh phúc dưới lòng đại dương. Thật tiếc thay cho nhiều anh chị không chịu lặn biển. Những gì dưới biển ở Hòn Mấu tôi được chiêm ngưỡng cũng không kém sinh động như Hòn Mun ở Nha Trang. Vẻ tráng lệ huy hoàng dưới lòng biển bất kỳ ai cũng quặn lòng với câu hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu hàng triệu tấn chất thải công nghiệp từ những nhà máy xả thẳng vào lòng biển”.
Mùa khô ở Nam Du nước rất hiếm. Năm 2016, hòn đảo hoang sơ này đã đón hàng ngàn khách du lịch từ khắp mọi miền đất nước. Hòn Lớn nơi chúng tôi đặt chân đến có nhà máy phát điện, có trạm y tế, có trường tiểu học, trung học cơ sở… Nhiều di tích được gìn giữ, tôn tạo như dinh Ông – miếu thờ ông Nam Hải luôn được cư dân trên đảo và ngư dân tín ngưỡng, Bãi Ngự – nơi in dấu chân vua Gia Long trong những ngày trốn tránh sự truy đuổi của Tây Sơn, bãi Giếng Tiên – nơi vua Gia Long từng dừng lại tắm, giờ còn có những rặng dừa xanh tuyệt đẹp và nước dừa ngọt mát. Trong tương lai, nếu đường du lịch quần đảo Nam Du nối Phú Quốc thì du lịch ở đây thật phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự khởi sắc của quần đảo tuyệt đẹp, Nam Du còn nhiều vấn đề ngổn ngang. Đó là sự quy hoạch xây dựng để không phá vỡ cấu trúc những hòn đảo xinh đẹp, cần lắm và vô cùng cấp bách việc xây dựng việc xử lý rác, hệ thống xả thải trên đảo. Sự phát triển đời sống văn hoá trên đảo cũng là bài toán thật đáng suy ngẫm…
Sáng hôm sau, chúng tôi được anh em đồn biên phòng đưa tham quan Hòn Lớn bằng chiếc xe leo dốc chuyên dụng. Trên độ cao gần 300m, chúng tôi mới chiêm ngưỡng hết vẻ đẹp hoang sơ của quần đảo Nam Du. Kia là dốc Ông Tình nay đổi là dốc Ân Tình, vì có nhiều đôi uyên ương khi yêu nhau, đưa lên dốc nói lời thề non hẹn biển. Anh sĩ quan biên phòng chỉ xuống vịnh, nơi ken dày những con tàu neo đậu nói: “Mấy hôm nay có gió bấc nên tàu về đây tránh bão”. Anh chỉ qua Ba Hòn Nồm, kể câu chuyện ông Bảy Mực đã ở lại hòn đảo giữa trùng khơi để giữ đảo. Hồi chiến tranh, ông Bảy Mực từng ra đảo trốn lính, ở lại đảo sinh sống. Ông Bảy Mực có mười người con, nay đã trưởng thành. Lớp sống với ông ở đảo, lớp qua Hòn Lớn lập nghiệp để con cái được tiện việc học hành.
Rời Nam Du, tràn lên trong lòng tôi là cảm giác biết ơn. Tôi biết ơn những cư dân đầu tiên có mặt trên những hòn đảo giữa trùng khơi biển Tây Nam tổ quốc, biết ơn những cái bến cho tàu neo đậu lúc gió bấc về, biết ơn những người phụ nữ đi câu mực, nhặt rác cho biển đẹp, biết ơn những cư dân giữ rừng trên hòn đảo để cây dầu mấy trăm năm tuổi còn lưu dấu cho đời.
Bài, ảnh Trầm Hương
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này