09:53 - 22/01/2017
Mưa phùn ở phía hoa rau muống
Gió bấc đã thổi trên đồng lúa còn trơ gốc rạ, mưa phùn cũng vừa rơi như rây bột xuống bờ vai; có một người quê Bắc bộ tìm về chốn cũ trong mưa phùn se lạnh; mưa đủ ẩm ướt khi bước xuống mỗi bậc đá ong ở đầm hoa súng, thứ hoa chỉ nở tung hô mình vào buổi sớm buổi chiều thì khép lại.
Người lữ thứ tha phương khấp khởi mừng thầm, ở làng vẫn còn cái đầm sen chưa lấp. Trưởng thôn cho hay cái đầm sen linh thiêng nên chẳng ai dám động tay vào.
Nếu không, chắc đầm cũng lấp, không có chỗ cho mưa phùn, không có chỗ cho mùa hè hoa sen nở, mùa đông súng ra hoa. Hoa và lá biết nương tựa vào nhau, đâu chỉ có riêng sỏi đá, đâu chỉ có riêng con người. Dòng sông Nhuệ Giang chảy chậm vào hồi thơ ấu của ông lữ khách tên Nhân, nay đã ngầu ngầu vì những làng nghề đổ ra bao thứ nước nhuộm mà nhìn ngoài ta không rõ.
Có người làng vừa đi mua tơ sớm đã nhanh nhảu: “Ông Nhân đã về chơi”. “Vâng bà đi chợ sớm”. Ông Chủ Nhân khi ra nước ngoài, tên mất dấu thường chỉ gọi Chu Nhan, mãi khi về quê, tên ông mới được gọi đúng dấu, đúng dấu tên khai sinh tiếng Việt. Người Việt gọi tên nhau có gì lạ lẫm, mà nao nao trong dạ. Một cái cối giã gạo đầu phía mái hiên, nơi xưa mẹ ngồi nhờ xâu kim, cái khăn mỏ quạ vắt ở ngọn sào vẫn vương ở mé sân sau. Còn mé ba gian nhà ngoài, cửa sổ phía trái có chấn song làm bằng gỗ xoan đào, nhìn ra đám rau muống cạn trong vườn sau nhà hoa nở cuối đông.
Đó là chưa nói đến thứ rau muống xơ mới ở Hà Nội độc bản, rau muống luộc ngắt ngọn dài, rau muống xào ngắt ngọn ngắn. Rau muống luộc chấm tương bần ăn kèm với rau kinh giới; rau muống có vị của rau muống, hoa rau muống thì không nổi tiếng. Nhưng trong lòng ông Chủ Nhân chỉ có hoa rau muống là đẹp, thứ hoa rau muống cạn tím se sắt nở trong mưa phùn, da diết, khi xa quê. Rồi nhớ quay quắt cái vại muối cà đã rạn của mẹ để lại cho con thuở nhỏ đi mò cua về, bắt cua đồng cho vào vại. Ban đêm nằm nghe cua bò lào khào lên thành vại (1), có con cua nằm ở đáy vại đã khều chân con cua đang lào khào bò lên thành vại và chúng đã quyết quắp nhau xuống.
Nhìn bọn cua, ông Chủ Nhân chạnh nhớ những năm 1980, khi ở nước ngoài, ông gặp một người bạn Việt. Hắn bán đứng ông, sau vụ bán buôn hàng quần áo khai sang hàng tạp hoá. Ông bị nhốt ít tháng mới được thả ra vì tội khai gian; thực ra ông không gian dối mà do lưng vốn ngoại ngữ kém. Không thể cãi nhau bằng chỉ chỉ chỏ chỏ.
Chẳng hiểu sao những lúc như thế ông lại nhớ đến những con cua trong cái vại cà đã rạn của mẹ, những con cua luôn kéo chân nhau xuống khi có con dám bò lên miệng vại. Chẳng hiểu sao chuyện của con cua lại khiến ông nghĩ tới những cách hành xử không văn hoá của con người với con người.
Hồi đó, ở quê nhà thì ông Chủ Nhân không nhớ hoa rau muống. Đợi khi tuổi tóc tạc sương muối bên trời Âu, cả đời lao động cật lực, nhiều năm phải dậy từ 2 giờ sáng đi bán áo kimono, bán áo phông gió dưới trời ngập tuyết nước Nga, có năm còn đi theo đơn đặt hàng rong ruổi sang cả nước Hungary bán tượng gỗ, phật Di Lặc, phỗng, ba ông Phúc Lộc Thọ.
Cuối cùng ông dừng chân bên Đức với người con gái duy nhất, khi vợ ông cũng vừa vĩnh biệt ông cũng mùa đông ở Hamburg. Bà cũng từng ước ao được về quê chồng nấu cho ông một bữa cơm quê trên mẹt thức ăn bày biện trên lá, mà không kịp nữa rồi. Bên Đức, mùa tuyết rơi, trong lòng ông Nhân lại rưng rưng nhớ những bông hoa rau muống tím sắt lại trong mưa phùn gió bấc, cái nụ hoa rau muống xanh nõn, nhỏ bé hơi giống hình quả nhót nhảy múa trong nỗi nhớ quê.
Vẫn nguyên vẹn cái chum tương ở gốc cây cau lùn, và mẹ nữa, ngày nào vẫn đứng sảy nắm thóc con đi mót về sau vụ gặt. Ôi, đến cả cái vại cà muối đã rạn mẹ cũng không nỡ bỏ đi, mẹ bảo với bố để đó: “Ông đừng có vứt đi, để cho cu Nhân đi bắt cua chiều chiều thả vào, sáng mai tôi đi chợ Vạng xa nhà, bán cua mua đấu gạo cho con”.
Ông Chủ Nhân đã tha phương bên các nước châu Âu, để rồi có một đời sống khấm khá không thiếu thốn, không phải lo nghĩ nhà cửa miếng ăn. Khi biết đủ thì sống chậm lại. Chuyến trở về quê lần đầu còn phải dành dụm tiền; chuyến thứ hai này ông quyết tâm thay đổi; quyết không tỵ nạn nỗi nhớ ở nơi xứ tuyết nữa, mà phải trả nỗi nhớ về nơi mưa phùn, nơi của vại cà, con cua, hoa rau muống tím, trả ký ức về chỗ ký ức, như trả người bạn thân về quê, nơi chăn bò năm xưa, nằm cạnh bố mẹ, vẫn còn nguyên day dứt, câu lục bát để lại:
Đời người cái bến đò sông
Từ hư không lại hư không mà về. (2)
Hoàng Việt Hằng
Theo TGTT
———–
(1) ý của nhà văn Đỗ Tiến Thuỵ
(2) thơ của nhà văn Triệu Bôn
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này