09:56 - 16/02/2018
Bạn cũ tiền âm và tiền dương
Cữ lập đông vừa rồi tôi về thăm lại nơi sơ tán, một làng cổ cách Hà Nội chưa đầy ba chục cây số. Có thể nói đây là một làng Việt điển hình: có cây đa, có cổng làng, có đình, chùa và cả nhà thờ nữa.
Mới mở cửa độ mươi năm thế mà mọi sự đã thay đổi gần hết. Nhưng nhìn chung kinh tế của các gia đình đều khá giả hơn trước. Mới về đến đầu làng, chỗ uỷ ban xã tôi đã nghe có tiếng gọi í ới, một người đàn ông len ra khỏi đám đông đang túm tụm ở trước lối vào hội trường, anh vừa cười vừa tiến về phía tôi. May mà anh ta nhận ra tôi trước, chào tôi trước chứ tôi trông quen quen nhưng không nhận ra là ai. Mãi về sau mới nhớ đấy là Văn nhà ở đầu làng.
Văn gặp tôi mừng rỡ, anh cứ đặt tay lên vai tôi mà lắc lắc. Hai đứa vừa đi, vừa bồi hồi ôn lại bao kỷ niệm cũ.
Sau khi đến thăm mấy gia đình bà con, tôi đi ra chùa. Từ đường vào, cổng, giếng, tường bao, gác chuông, gác trống, tam quan, cửu phẩm cho đến nhà tổ, đều mới được trùng tu, khang trang, gọn gàng, sạch sẽ. Đèn màu nhấp nháy xanh đỏ, tượng cũ được sơn thếp lại bóng lộn. Phần lớn các bức tường đều quét vôi màu phấn hồng hoặc xanh ve. Ngoài sân mới dựng thêm một pho tượng Phật bà bằng đá trắng đứng trên toà sen, kiểu cách rất khó tả nhưng thường hay thấy ở các chùa từ miền Trung đổ vào. Bức tượng tuy to cao nhưng đục chạm không tinh tế. Tôi thắp một tuần nhang, thả vài đồng bạc lẻ vào hòm công đức sơn đỏ. Sư cụ rót mời tôi bát trà xanh đặc. Tôi tranh thủ hỏi cụ các chuyện giáo lý, trước khi ra về mới gặng hỏi đến chuyện trùng tu. Cụ bảo bà con trong làng góp công, còn tiền thì anh Văn phát tâm là chính. Trừ có pho tượng màu trắng ở ngoài sân là do một bà khách, nhà tận trong Nam, đi du lịch ngang qua, thấy cảnh chùa nghèo thì đặt thợ làm rồi gửi ra cung tiến.
Tôi nghĩ bụng, theo lẽ thường, người góp nhiều tiền thường hay góp ý, bèn hỏi sư cụ thêm một câu: có phải màu tường do anh Văn duyệt hay cũng tuỳ tiện mà làm? Chả biết có nghe rõ không nhưng không thấy cụ trả lời.
Đã gần trưa, tôi ghé vào thăm Văn. Khách khỏi phải hỏi mà chủ cũng đỡ phải trả lời. Đang nghèo rồi trở nên giàu, dù là lương thiện nhưng khách nhìn thôi chứ cứ hỏi khoáy vào chuyện đó thì chủ nhà chưa chắc đã thích. Kẻ ra người vào tấp nập, nói nói cười cười, bê bê vác vác, những bao tải ni lông xếp chồng lên nhau kín cả sân, cả hiên, nên cửa chính bốn cánh bị bít gần hết trông như cái lỗ. Tôi lách người mãi mới chui được vào trong.
Hồi sáng, khi chia tay, Văn dặn: thể nào cũng phải ghé vào nhà uống nước. Thế mà chả thấy nước nôi đâu, cỗ phản cặp liếp bằng lim (đúng tiêu chuẩn dày 10cm, rộng 80cm, dài 210cm) kê ở gian bên phải đã một mâm đủ lệ bộ, năm đĩa (bốn to, một nhỏ), một đĩa xào, một đĩa xôi, một đĩa gà luộc, một đĩa chua ngọt, một đĩa nhỏ đơm khoanh giò lụa. Đi với một bát canh xương khoai tây và một bát giả cầy. Ngoài ra hôm nay ưu tiên khách ở tỉnh về, thêm đĩa to xáo chó để nâng lên đặt xuống một tý, mừng buổi hội ngộ (như anh bạn “Giăng Van Giăng” quý mến của tôi nói khi chạm chén).
Thấy tôi áy náy, anh trấn an, thời mới bây giờ cái gì cũng sẵn, cứ ra chợ là có hết. Mà chợ họp suốt cả ngày ở ngay ngoài sân kho hợp tác dạo trước. Chứ không phải lên chợ Tó nữa, vừa xa, vừa theo phiên ngày lẻ mồng ba, mồng tám, mười ba, mười tám rất kích dích.
Xởi lởi giời cởi cho, Văn là người rộng rãi, nhân hậu và rất xông xáo. Ngoài cái răng vàng, anh còn có một nét đặc biệt nữa mà hình như mới xuất hiện chứ trước đây không thấy đó là cặp mắt lúc nào cũng như cười. Hết đấu thầu hai cái đầm của hợp tác xã để thả sen và nuôi cá, lại đóng gạch, buôn vịt nhưng đã bỏ hết, bây giờ anh chỉ còn nhất nghệ tinh là buôn vàng mã và tiền âm phủ. Anh khoát tay một vòng rồi bảo: tất cả đều ở đó mà ra. Với người khác thì chưa chắc tôi đã tin, tửu nhập rồi cũng có thể họ nói quá lên hoặc vơi bớt đi, nhưng với Văn thì tôi tin. Anh vừa tận dụng nhân công trong nhà, vừa phải thuê thêm người làm để bảo đảm tiến độ giao hàng, mỗi người mỗi việc, tất cả đều gấp gáp, khẩn trương. Sắp xếp, kiểm tra bịch to gói nhỏ. Ai đến trước mua trước, ai đến sau mua sau. Vừa đếm tiền dương, vừa đếm tiền âm. Màu phẩm xanh thái thanh lam, phẩm hồng cánh sen thôi ra từ những tờ tiền âm phủ, những hình nhân thế mạng dính lem nhem vào chân tay, mặt mũi mọi người, nên tuy công việc vất vả nhưng trông ai cũng hồng hào, vui vẻ.
Chị vợ của Văn có khuôn mặt dễ nhìn, trông hao hao khuôn mặt của các pho tượng thị giả ở chùa. Chị ngồi cùng mâm (vẫn ngồi đầu nồi) cùng ăn, cùng tiếp khách với chồng, chứ không lụi hụi dưới bếp như những nhà khác. Chị ít nói, chỉ thỉnh thoảng cười góp.
Tôi hỏi thăm hai vợ chồng được mấy cháu? Anh bảo: “Cảm ơn cậu! Chúng mình được nhị nam, nhị nữ”. Nghe Văn nói tôi thoáng giật mình. Trong khi cả xã hội tiến về phía trước, tiến về phía tiếng Anh hiện đại, thì bạn tôi lại giật lùi về với cái món Hán tự cổ xưa. Bấy giờ tôi mới kịp đảo mắt một vòng quanh nhà. Ngôi nhà mới xây được quãng vài năm, có quạt trần, có ti vi nhưng trên bức tường giữa vẫn treo một bức hoành phi cẩn ba chữ: Bần Như Lạc – nghèo mà vui. Chắc là do ông nội anh hồi môn lại và đôi câu đối mới tinh khiêng ở phố Hàng Quạt về, xanh đỏ, bóng bẩy. Chữ viết lối đá thảo nhưng thiếu nét nên tôi bóp trán một hồi mà cũng không luận được ra nghĩa.
Cuộc sống luôn biến đổi và có nhiều mặt mà câu chuyện của gia đình anh Văn ở quê tôi chỉ là một ví dụ về sự đổi thay, công cuộc đổi mới đã trên ba chục năm. Kinh tế đã phát triển vượt bậc từ thành thị đến nông thôn nhưng hình như văn hoá thì không tiến lên được mấy. Tấm huân chương nào cũng có hai mặt. Cái cũ thì chưa qua hẳn, cái mới cũng chưa kịp khẳng định. Cái xô bồ, đại khái có vẻ như đang là mốt. Thế mới thấy để có được một đời sống vật chất khá giả đã là khó, nhưng để có được một đời sống tinh thần tương đối khá thôi cũng chả dễ gì.
bài, ảnh Lê Thiết Cương
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này