11:28 - 14/12/2016
Hơn nghìn tỷ làm thực phẩm truy xuất nguồn gốc
Lần đầu tiên, một dự án hợp tác sản xuất chuỗi thực phẩm sạch, an toàn, có truy xuất nguồn gốc được ký kết bởi một doanh nghiệp chăn nuôi trong nước và nhiều đối tác nước ngoài trị giá hơn 1.000 tỷ đồng.
Thế mạnh “kiềng bốn chân!”
Mục tiêu cuối cùng trong chuỗi liên kết, trị giá tới 50 triệu USD, tương đương hơn 1.200 tỷ đồng, là tạo ra mỗi năm hơn 3 triệu con gà thịt, 1 triệu con gà đẻ, 1.600 con heo nái và 15.000 con heo thịt mỗi năm.
Ngoài ra, toàn bộ nguồn phân thải ra trong quá trình chăn nuôi được sử dụng làm nguyên liệu chế biến phân hữu cơ để sản xuất rau củ, cung ứng cho thị trường khoảng 900 tấn mỗi năm.
Trao đổi với báo giới mới đây, ông Vũ Mạnh Hùng, giám đốc công ty Hùng Nhơn (Bình Phước), doanh nghiệp Việt Nam duy nhất trong chuỗi liên kết này, cho biết, đây là một dự án gồm nhiều trang trại tại nhiều nơi và cũng có nhiều đơn vị tham gia, trong đó có các đơn vị về sản xuất con giống như Bel Ga của Bỉ, đơn vị về cung cấp thức ăn chăn nuôi De Heus (Hà Lan), đơn vị chuyên về xây dựng hệ thống trang trại (Hùng Nhơn) và các công ty về đầu ra như đơn vị giết mổ, phân phối sản phẩm.
De Heus, ngoài vai trò là nhà cung cấp thức ăn chăn nuôi, bằng kinh nghiệm quản lý chuỗi đến từ quốc gia châu Âu, doanh nghiệp này sẽ là cầu nối, người điều hành chuỗi liên kết này.
Với vai trò đầu tàu, chịu trách nhiệm chăn nuôi, xây dựng thương hiệu, phân phối sản phẩm, theo ông Vũ Mạnh Hùng, dự án này có tính khả thi cao vì nó được xây dựng trên nền tảng “kiềng bốn chân”.
Các bên tham gia, bằng kinh nghiệm của mình, sẽ phát huy hết khả năng vốn có. Như Hùng Nhơn chẳng hạn, ông Hùng khẳng định công ty mình có kinh nghiệm trong chăn nuôi công nghiệp, đang có số trang trại gà đứng tốp đầu tại Việt Nam với hơn 360.000 con mỗi lứa, cùng hệ thống trang trại heo hàng trăm ha ở Bình Phước và Đồng Nai.
Tất cả hệ thống trang trại của Hùng Nhơn được đầu tư đồng bộ bằng công nghệ tiên tiến, vận hành hoàn toàn tự động. Sau này, dự kiến là đến giữa năm 2017 có sản phẩm thịt gà đầu tiên ra thị trường, Hùng Nhơn trực tiếp đưa vào giết mổ và xây dựng thương hiệu cung cấp đến người tiêu dùng.
Trong khi đó, đầu tư vào Việt Nam cách nay chưa lâu, De Heus đang nổi lên là đại gia FDI trong ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi có uy tín với sản phẩm không có kháng sinh. Hiện De Heus có bảy nhà máy thức ăn, công suất gần 2 triệu tấn, gần ngang ngửa với C.P. Đại gia này có tiềm lực tài chính cũng như thừa kinh nghiệm quản lý, sản xuất thức ăn đáp ứng chuỗi truy xuất.
Ông Gabor Fluit, tổng giám đốc khu vực châu Á tập đoàn De Heus cũng cho rằng, khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm của chuỗi này vượt hẳn so với các dự án khác đang triển khai. Đó là có khả năng truy xuất từ con giống, thức ăn chăn nuôi, trại chăn nuôi, cơ sở giết mổ đến từng sản phẩm trên thị trường đối với các sản phẩm chăn nuôi.
Riêng các sản phẩm rau củ quả thì ngay cả nguồn phân bón cũng được truy xuất. Bởi trong chuỗi liên kết này có một đơn vị sản xuất phân bón hữu cơ trực thuộc tập đoàn Hùng Nhơn (Bình Phước).
Cạnh tranh được không?
Tiêu chuẩn đặt ra cho chuỗi thực phẩm này là đạt chuẩn xuất khẩu vào các thị trường cao cấp như Nhật Bản và EU, chứ không dừng lại ở tiêu thụ nội địa. Tất nhiên, sản phẩm truy xuất nguồn gốc là yếu tố cốt lõi được hướng đến.
Hiện tại ở Việt Nam, nếu thực hiện đúng theo tiêu chuẩn VietGAP thì chất lượng nông sản cũng khá tốt, tuy nhiên, các bên mong muốn dự án này hướng tới là chuẩn GlobalGAP. Trên lý thuyết, sản phẩm có chất lượng, đảm bảo tiêu chí quản lý chuỗi, có giá thành hạ thì có thể định vị được phân khúc thị trường.
Tuy nhiên, khi Việt Nam hội nhập, sắp tới thuế bảo hộ chăn nuôi không còn, thì những gì mà dự án triệu đô này đang làm, đã được các nước phát triển thực hiện từ lâu rồi. Ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi gà công nghiệp tại Việt Nam đã phải cạnh tranh rất khó khăn với thịt nhập khẩu giá rẻ.
Theo tính toán, 1kg thịt gà nhập hiện có giá trung bình khoảng 20.000 đồng và từ nhiều năm nay, thịt gà nhập đã định vị được thị trường bếp ăn công nghiệp, bếp ăn tập trung trường học, sinh viên, kể cả các thương hiệu gà rán nổi tiếng. Liệu rằng, dự án triệu đô tuy là lần đầu ở Việt Nam, nhưng quá cũ với nước ngoài này, liệu có thể cạnh tranh được hay không?
Trao đổi trước báo giới, ông Gabor Fluit khẳng định việc áp dụng các công nghệ hiện đại thì chi phí chăn nuôi trong chuỗi sẽ giảm, trong khi chất lượng lại được nâng lên. Như vậy, ông cho là đối với người tiêu dùng Việt Nam, thì hình ảnh về sản phẩm có truy xuất nguồn gốc cũng tốt hơn. Còn ông Vũ Mạnh Hùng thì nhắc tới câu “có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chịu”, để nói đến sự san sẻ lợi nhuận cũng như rủi ro nếu có của các bên trong dự án.
Nếu làm tốt ở khâu chất lượng, có giá thành cạnh tranh, đồng thời khẳng định được sản phẩm nằm trong vùng an toàn dịch bệnh, sẽ là điều kiện cho Việt Nam xuất khẩu được sản phẩm thịt gà sang các nước khác với giá trị cao. Dự án 50 triệu USD này cũng hướng đến xuất khẩu, nhưng với một phân khúc thị trường riêng, đó là phần ức con gà, nơi xu hướng tiêu dùng châu Âu, Mỹ… ưa chuộng.
Theo ông Vũ Mạnh Hùng, người tiêu dùng Việt Nam không thích ăn ức gà có giá khá rẻ mà chỉ quan tâm đến đùi, thì xuất khẩu có giá rất cao vì nước ngoài ưa chuộng. Như vậy, phần giá trị từ xuất khẩu sẽ bù lại cho phần bán giá rẻ trong nước và về tổng thể, con gà công nghiệp trong nước cạnh tranh được với gà nhập khẩu.
bài, ảnh Bảo Ngọc
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này