16:49 - 02/06/2018
GS Gerard ‘t Hooft – Nobel Vật lý 1999 thăm Đà Lạt
Chuyến thăm Đà Lạt của GS ‘t Hooft là một sự kiện rất ư thú vị cho thành phố. Hiệu trưởng trường đại học Đà Lạt Nguyễn Đức Hoà đánh giá cao sự hiện diện của GS ‘t Hooft, thông qua tổ chức Gặp gỡ Việt Nam của GS Trần Thanh Vân.
GS ‘t Hooft là nhà khoa học đạt giải Nobel đầu tiên đến thăm và nói chuyện, đó là một vinh dự rất lớn cho trường, ông nói.
Bài thuyết trình của GS Gerard ‘t Hooft lôi cuốn những người yêu vật lý, vẽ lên một cầu vòng ngũ sắc của vật lý hiện đại đã diễn ra nửa đầu và nửa sau thế kỷ trước. Ông đi từ thế giới phân tử, thế giới nano, sang thế giới hạt cơ bản như quark, lepton và gluon, và các lực chi phối, lực yếu, lực điện từ và lực mạnh, tất cả tạo thành cái gọi là Mô hình chuẩn mà ông là một trong những người cha khai sinh. Mô hình này đã hình thành rõ nét những năm đầu 1970, và có thể gải thích tất cả các hiện tượng vi mô hoàn toàn khớp với các kết quả thí nghiệm. Cao điểm là hạt Higgs, và cơ chế BEH (Brout-Englert-Higgs), cơ chế đã tạo ra khối lượng cho vật chất, mà nếu không có, sẽ không có gì hết, kể cả chúng ta. Thế giới hạt cơ bản được quy định bởi cơ học lượng tử và thuyết tương đối hẹp Einstein.
Có nhiều câu hỏi, nhất là từ các bạn trẻ, đã được nói ra, cũng như chưa được nói ra.Tiếc thời gian đã không cho phép. Về câu hỏi làm sao để trở thành một nhà vật lý lý thuyết giỏi, GS ‘t Hooft cho rằng cần phải có đủ độ đam mê và hoài bão, nếu không muốn nói cháy bỏng, như những điều kiện tiên quyết. Và lao động cật lực. Điều hàm ý phải có một cuộc sống khác, nếu không muốn nói trong “cô đơn và tự do” của Humboldt.Ông đã và còn đang thiết kế một trang mạng “thích học vật lý” giúp sinh viên, người đam mê tự học thêm, và ở đó ông liệt kê những lãnh vực của vật lý hiện đại mà các sinh viên có hoài bão có thể tham khảo.
Dường như sau Einstein, chúng ta đang di chuyển đến cột mốc Hawking quan trọng như một bản chỉ đường trong cuộc chinh phục vũ trụ. Trong chốc lát, khám phá của Hawking kết nối ba miền khoa học với nhau: lực hấp dẫn, hay thuyết tương đối rộng, cơ học lượng tử, và khoa học nhiệt. Lỗ đen có thể là viên đá rosetta của vật lý học, như dấu hiệu nóng phục vụ cuộc săn lùng bản đồ của Chúa mà Einstein từng trăn trở.
Ở tuổi 72, GS ‘t Hooft vẫn miệt mài theo đuổi những vấn đề vật lý ở biên giới tri thức, giống như Einstein cho đến những ngày tháng cuối cùng. Ông không xem khoa học như một nghề để sống, mà xem khoa học như một tiếng gọi, một sứ mệnh ông có nhiệm vụ khám phá và truyền bá.Ông xem khoa học như một lý tưởng sống, đúng như tinh thần của Humboldt, và ông cũng sống “cô đơn và tự do”. Ông là người đi gieo hạt, như hình ảnh trong bức tranh Người gieo hạt buổi sáng của danh hoạ Vincent van Gogh, một đồng hương của ông cuối thế kỷ 19. Ông cũng không phải là trường hợp riêng lẻ, mà cả nền văn hoá của phương Tây là như thế.Họ sống với khoa học cho đến trọn đời.Khoa học chính là lẽ sống. Họ nghiêm chỉnh với khoa học, điều cần thiết như GS ‘t Hooft nói, cho nên họ mới có khoa học. Khoa học quá thú vị, và “thiêng liêng” để “gác kiếm”, hay hưởng nhàn. Con mắt của các nhà khoa học kết nối với “con mắt của Chúa” như nhà thần học Đức Meister Eckhart thế kỷ 13, diễn tả khi ông bàn về bản chất của quan hệ con người với Chúa: “Con mắt mà qua đó tôi nhìn Chúa cũng là cùng con mắt mà qua đó Chúa nhìn tôi. Mắt của tôi và mắt của Chúa là một, và cùng một cái nhìn, và một tri thức, và một tình yêu”. Phải có con mắt sâu sắc như thế mới nhìn thấy Chúa, thấy vũ trụ.Làm sao không “thiêng liêng”, đầy cảm hứng và thôi thúc được?
Nguyễn Xuân Xanh (TGTT lược trích)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này