
19:10 - 31/10/2016
Ghi chép từ một hội nghị: ‘Nghịch lý miền Tây’
Những hình ảnh đẹp đẽ và hồn nhiên của miền Tây dần trôi vào quá khứ. Thay vào đó là một “miền Tây hoang dã” với môi trường ô nhiễm, ruộng vườn hoang hóa, cuộc sống hàng triệu người dân bị đe dọa.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) từ lâu là một “vùng kinh tế trọng điểm” của cả nước, giờ đây đang chứng kiến những nghịch lý đau lòng, khi người trẻ lũ lượt bỏ quê đi tha hương cầu thực. Trong ảnh: Tan ca ở KCN Hòa Phú, tỉnh Vĩnh Long, nơi thu hút nhiều lao động nông thôn. Ảnh: Hoàng Lan.
Từ xa xưa, người ta thường nói đến đồng bằng Nam Bộ là “vựa lúa của cả nước”, với những “cánh đồng thẳng cánh cò bay”, với hệ thống kênh rạch chằng chịt, tôm cá đầy sông, hoa trái đầy vườn, lúa gạo đầy bồ…
Miền Tây được “thiên nhiên ưu đãi”, với “Cần Thơ gạo trắng nước trong” và “người đẹp Tây Đô”, cuộc sống vật chất phong lưu như “công tử Bạc Liêu”, còn cuộc sống tinh thần hồn nhiên như “bài ca vọng cổ”…
Nhưng tất cả những hình ảnh đẹp đẽ và hồn nhiên đó đã trôi vào quá khứ như một huyền thoại về một “thời xa vắng”.
Nó đang được thay thế bằng hình ảnh “miền Tây hoang dã” với môi trường bị ô nhiễm, ruộng vườn bị hoang hóa vì hạn hán và ngập mặn.
Cuộc sống của hàng triệu người dân miền Tây đang bị đe dọa. Con gái miền Tây phải bỏ quê hương đi lấy chồng Đài Loan, hoặc ra thành phố kiếm sống bằng nghề bia ôm…
Đó là một nghịch lý đau lòng đầy bi kịch. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) từ lâu là một “vùng kinh tế trọng điểm” của cả nước.
Nhưng tác hại to lớn do thiên tai (hạn hán và ngập mặn) “chưa từng có trong lịch sử”, đã làm mất hơn 160.000 ha lúa (theo đánh giá ban đầu), ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của 320.000 hộ dân, khiến 775.000 người thiếu nước ngọt.
Sau trận hạn hán và ngập mặn lịch sử đó, ĐBSCL sẽ đi về đâu?
ĐBSCL chiếm 19% dân số cả nước (hơn 18 triệu người), chiếm 13% diện tích cả nước. Tốc độ tăng trưởng cao hơn cả nước (năm 2015 tăng 7,8% trong khi cả nước tăng 6,8%).
Chỉ riêng cây lúa đã chiếm 47% diện tích và 56% sản lượng cả nước. Xuất khẩu gạo của toàn vùng chiếm tới 90% sản lượng, chưa kể thủy sản chiếm 70% diện tích, 40% sản lượng và 60% xuất khẩu của cả nước.
Nhưng về thu nhập, ĐBSCL lại nghèo hơn cả nước: thu nhập bình quân đầu người với mức 40,2 triệu đồng (cả nước là 47,9 triệu đồng/người/năm).
Cái nghèo vô lý của ĐBSCL cũng đã lộ rõ: làm nông nghiệp nhưng với phương thức sản xuất hiện nay, năng suất lao động thấp, chắc chắn sẽ thua trong sân chơi toàn cầu hóa.
Thách thức Mekong Connect 2016
Tôi may mắn vừa được dự “Mekong Connect Forum 2016” (Cần Thơ, 26/10/2016). Khẩu hiệu năm nay là “Tìm Cơ trong Nguy” để đối phó với “biến đổi khí hậu, vấn nạn môi trường, thách thức hội nhập”.
Đó là tầm nhìn và định hướng đúng. Đây là diễn đàn hàng năm, dành cho các doanh nghiệp, do sáng kiến của một số lãnh đạo doanh nghiệp và địa phương năng động, đã kết nối được 4 tỉnh thành ĐBSCL là An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp (ABCD Mekong), và đang lan tỏa ra các tỉnh khác như một mô hình kiểu mẫu.
Diễn đàn đã quy tụ được hơn 20 diễn giả chuyên nghiệp, cả Việt Nam lẫn nước ngoài, bao gồm quan chức, chuyên gia, doanh nhân tiêu biểu.
Bài tham luận “đề dẫn” (keynote) của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về “các giải pháp đổi mới nông nghiệp” là một tài liệu tham khảo rất quan trọng, không những cho diễn đàn này, mà còn cho các đối tượng khác. Các tham luận của các chuyên gia và doanh nhân trong và ngoài nước đều rất thiết thực.
Ví dụ, ông Philip Zerillo (giáo sư, SMU, Singapore) về “Biến đổi khí hậu và rủi ro trong kinh doanh”; Mr Julien Brun (CEO, CEL Consulting) về “chuỗi cung ứng”; ông Herb Cochran (Giám đốc điều hành Amcham VN) về “an toàn thực phẩm nhập khẩu vào Mỹ”; ông Gal Yarden (CEO, Natafim, Israel) về “nông nghiệp sạch và thông minh”.
Diễn đàn đã quy tụ được hơn 600 người tham dự, trong đó có một số lượng lớn doanh nhân từ vùng ĐBSCL và các nơi khác. Điều gây ấn tượng nhất là hầu hết khách đã dự đến cuối cùng, chứ không bỏ về sớm như nhiều hội thảo khác (nặng hình thức, như “cưỡi ngựa xem hoa”).
Thái độ nghiêm túc và sự quan tâm của khách chứng tỏ mấy điều: một là nhu cầu thực sự của người dân, hai là bản tính chân thật của người miền Tây, ba là chất lượng tổ chức và nội dung thiết thực. Tuy trong phiên toàn thể, vẫn còn nhiều người sử dụng điện thoại di động làm việc riêng, nhưng ít hơn các hội thảo khác.
Về quan chức đến dự, có ông Trương Vĩnh Trọng (nguyên phó thủ tướng). Ngoài ra có lãnh đạo bộ KH-CN tham gia tích cực: một thứ trưởng (đương nhiệm), và một bộ trưởng (đã nghỉ hưu). Hai diễn văn khai mạc đều có nội dung thiết thực, không nhàm chán: một là của đại diện lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, hai là của phó chủ tịch Cần Thơ (chủ nhà).
Điều đáng tiếc nhất là không có mặt Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn (bộ “chủ quản”), Trong khi ĐBSCL là “vựa lúa của cả nước” đang bị thiên tai và “nhân họa” đe dọa đến sự sống còn… Bộ Tài Nguyên – Môi trường và Bộ Công thương (có liên quan) cũng không có mặt.
Cũng trong mấy ngày này (24-26/10/2016), tại Hà Nội đang diễn ra Hội nghị ACMECS-7, Hội nghị CLMV-8 và Hội nghị WEF–Mekong. Cả 3 hội nghị quan trọng này đều liên quan đến Tiểu vùng Mekong, đang đối mặt với hậu quả của biến đổi khí hậu và những bất cập giữa các quốc gia trong tiểu vùng.
Nhưng diễn đàn “Mekong Connect 2016” dường như vẫn là một ốc đảo, đang tự bươn chải trong một thể chế bất cập (disconnected & dysfunctional), với những nút thắt (bottlenecks), và rào cản (constraints) chưa được tháo gỡ.
Cơ hội đổi mới nông nghiệp
Chuyên gia Phạm Chi Lan (một bà lão 73 tuổi, đã nghỉ hưu gần hai thập kỷ) vẫn tâm huyết thuyết trình về “đổi mới nông nghiệp”, để đối phó với thiên tai và “nhân họa” đang đe dọa ĐBSCL.
Bài thuyết trình của chuyên gia Phạm Chi Lan đề cập, muốn đổi mới nông nghiệp tại ĐBSCL, cần hiện đại hóa và thương mại hóa theo phương châm “nhiều hơn từ ít hơn” (more from less), và cải cách thể chế toàn diện (như “đổi mới vòng hai”) theo khuyến nghị của “Báo cáo Việt Nam 2035” (vừa xuất bản).
Để tháo gỡ những bế tắc hiện nay tại ĐBSCL, cải cách thể chế về sở hữu ruộng đất có ý nghĩa cơ bản. Còn nhớ thời “đổi mới vòng một” (1986), chúng ta đã quen với khẩu hiệu “hãy tự cởi trói” của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.
Tại ĐBSCL, cũng như trên thế giới, con người không thể chống lại biến đổi khí hậu, mà chỉ có thể tìm cách ứng phó với hệ lụy của nó để tồn tại và phát triển, trong môi trường thay đổi. Đó là câu chuyện toàn cầu, không phải chỉ Việt nam.
Nước nào năng động, chịu đổi mới tư duy, biết ứng dụng công nghệ mới và cách quản trị mới thì thoát hiểm. Nước nào bảo thủ, không chịu đổi mới tư duy, “không chịu phát triển”, thì sẽ tụt hậu. Người ta hay nói, không ai có thể thay đổi được quá khứ, nhưng có thể sắp xếp lại tương lai.
Trong môi trường biến đổi khí hậu đầy “thiên tai”, con người càng phải khôn ngoan để giảm thiểu “nhân họa” (do mình gây ra). Không ai lại dại dột muốn đối phó với cả thiên tai và “nhân họa” cùng một lúc như “hiệu ứng kép”.
“Nhân họa” có thể do phát triển thủy điện tràn lan (trên vùng thượng nguồn) làm cạn kiệt nguồn nước và nguồn phù sa (dưới hạ nguồn).
“Nhân họa” cũng có thể do chủ trương tăng tối đa diện tích trồng lúa 2-3 vụ, đắp đê bao chống lũ và cống ngăn mặn, làm thay đổi hệ thống cân bằng sinh thái, xô đẩy người nông dân phải tăng sản lượng bằng mọi giá, sử dụng quá nhiều phân hóa học và thuốc trừ sâu, làm đất bị bạc màu, nguồn nước ô nhiễm, và lúa gạo khó đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm ngày càng cao, không có vị thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
Việc FDA Mỹ vừa từ chối không nhận 94 containers gạo của Việt Nam là một bài học (do dư lượng thuốc trừ sâu quá mức cho phép). Chúng ta đã suýt mất thị trường Mỹ cho thủy hải sản, nay có thể mất nốt thị trường Mỹ cho lúa gạo, nếu không đảm bảo an toàn thực phẩm.
Đây không phải lỗi của người nông dân, mà lỗi của người quản lý. Người nông dân thiếu thông tin, chỉ hành động theo thói quen. Do bị thúc đẩy phải tăng sản lượng lúa bằng mọi giá, phải trồng 2-3 vụ để đạt thành tích xuất khẩu, nông dân đã sử dụng quá nhiều phân bón và thuốc trừ sâu.
Người ta nói, “quan thì tham, dân thì gian”, cũng không sai. Phải đổi mới tư duy và thể chế, theo hướng “phi truyền thống hóa” và hiện đại hóa nông nghiệp.
Vì vậy, phải thay đổi cơ cấu nông nghiệp truyền thống lấy lúa gạo làm chủ đạo (giống như “lấy quốc doanh làm chủ đạo”). Từ lâu Bộ NN-PTNT đã chỉ đạo phải tăng sản lượng lúa bằng mọi giá để xuất khẩu, bằng cách trồng 2-3 vụ, bất chấp rủi ro và hệ lụy.

Sản phẩm khởi nghiệp từ nông nghiệp của các bạn trẻ đồng bằng tham gia triển lãm tại Mekong Connect rất được quan tâm.
Cái giá phải trả của lúa vụ 3
Từ năm 1990, chính quyền các tỉnh ĐBSCL, như An Giang và Đồng Tháp, đã xây dựng hệ thống đê bao chống lũ rất tốn kém, để trồng lúa vụ 3 (với diện tích lên đến 600.000ha). Tổng sản lượng lúa của ĐBSCL đã tăng từ 7 triệu tấn (năm 1986) lên 25 triệu tấn (năm 2015), chiếm 90% kim ngạch xuất khẩu gạo cả nước.
Nhưng cái giá phải trả cho chủ trương đó là diện tích rừng tràm đã biến mất ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, vùng U Minh Thượng và Hạ. Theo GS Nguyễn Ngọc Trân, “Tăng trưởng được đánh đổi bằng chế độ thủy văn bị xáo trộn bên ngoài đê bao. Bên trong đê thì độ màu của đất giảm sút, môi trường bị suy thoái”.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh đó, phải rà soát lại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, các quy hoạch phát triển ngành, địa phương ở ĐBSCL theo hướng tiết kiệm nước ngọt, và chung sống với hạn hán và ngập mặn. Nhiều nước khác đã biết cách khai thác thành công nước mặn như một tài nguyên.
Theo GS Võ Tòng Xuân, “Đối với các tỉnh có nước ngọt quanh năm như An Giang, Đồng Tháp và một phần Tiền Giang, Vĩnh Long, thì cần tập trung đầu tư cho cây lúa nhưng sử dụng nước tiết kiệm hơn. Còn vùng mặn thì linh hoạt theo hướng đầu tư cho cây lúa trong mùa mưa và nuôi tôm mùa khô…”
Trong thị trường toàn cầu hóa cao độ, cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kinh doanh nông nghiệp sẽ quan trọng hơn cả sản xuất nông nghiệp thuần túy.
Các địa phương và các doanh nghiệp cần linh hoạt chọn cho mình vị trí thích ứng trong chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng, biết cách kết nối với thị trường để tham gia cuộc chơi có hiệu quả.
Thách thức thủy điện Mekong
Một thách thức rất lớn và nan giải do “nhân họa” là việc khai thác triệt để tài nguyên nước trên thượng nguồn, trong đó có việc chuyển dòng nước sang lưu vực sông khác và khai thác thủy điện tràn lan trên dòng chính sông Mekong từ cao nguyên Tây Tạng trở xuống.
Theo Ủy ban sông Mekong, 6 đập thủy điện ở Trung Quốc cùng với 11 đập ở hạ lưu và 30 đập trên các chi lưu sẽ tích lại một lượng nước của sông Mekong vào năm 2030 là 65,5 tỷ m3 trong khi nhu cầu về nước tại hạ lưu tăng 50% so với năm 2.000.
Khi nói đến thủy điện người ta thường nói nhiều về số lượng nước mà ít nhấn mạnh đến chất lượng nước, thể hiện qua lượng phù sa có trong nước. Lượng phù sa này sẽ bị các đập thủy điện ngăn lại gần như vĩnh viễn. Không có phù sa, đồng bằng sẽ chết.
Theo các chuyên gia sinh thái, quá trình kiến tạo ĐBSCL diễn ra từ 6.000 năm trước, nhưng sự mất cân bằng phù sa hiện nay sẽ làm đảo ngược quá trình kiến tạo đó và dẫn đến nguy cơ tan rã ĐBSCL.
Hiện tượng nước Sông Hậu bỗng trong xanh như nước biển là một hệ lụy nhãn tiền cho thấy lượng phù sa từ thượng nguồn Mekong đổ về ĐBSCL ngày càng ít.
Theo một kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Quốc gia Singapore (NUS) về tác động của đập thủy điện Mạn Loan (của Trung Quốc) về lượng phù sa đổ về ĐBSCL cho thấy trước khi có con đập này, lượng phù sa vào khoảng 160 triệu tấn/năm.
Nhưng sau khi con đập được đưa vào hoạt động, lượng phù sa chỉ còn 75 triệu tấn/năm. Như vậy, chỉ với một con đập, lượng phù sa đã giảm xuống một nửa.
Theo TS Lê Anh Tuấn (Đại học Cần Thơ), con số này sẽ tiếp tục giảm thêm 1/2 nữa, chỉ còn khoảng 42 triệu tấn/năm, một khi các đập trên dòng chính sông Mekong ở Lào và Campuchia đi vào hoạt động.
Theo Bộ TN-MT, các hồ chứa trên dòng chính của sông Mekong ở phía Trung Quốc có dung tích khoảng 23 tỉ m3, trong khi các hồ chứa trên những dòng nhánh khoảng 20 tỉ m3.
Tổng dung tích này tác động rất lớn đến việc điều tiết nước và lưu lượng dòng chảy về hạ lưu. Hiện có 11 đập thủy điện trên sông Mekong bên ngoài Việt Nam (gồm 9 đập ở Lào và 2 đập ở Campuchia). Nhưng 11 đập này chỉ bằng 1/7 tác động của các đập ở Trung Quốc.
GS Nguyễn Ngọc Trân nói, “Đã đến lúc 6 nước trong lưu vực sông Mekong phải xây dựng một cơ chế sử dụng nguồn nước. Trong đó, quyền và lợi ích mỗi quốc gia phải đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ đối với cả lưu vực, với tinh thần hợp tác cùng phát triển”.
Tuy diễn đàn liên kết 4 tỉnh thành ABCD là một mô hình kiểu mẫu, đang góp phần tích cực và hiệu quả vào việc tháo gỡ những vấn nạn tại ĐBSCL, nhưng để kết nối kinh tế của 13 tỉnh thành của ĐBSCL cộng lại vẫn là một bài toán khó. Nếu không biết quản trị, có nguy cơ làm cản trở và làm suy yếu lẫn nhau.
Những thách thức từ bên ngoài và từ bên trong không chỉ tác động riêng lẻ đến mỗi địa phương, mà còn tác động lẫn nhau, làm cho tác động liên tỉnh càng lớn hơn.
Bên cạnh đó còn đầy rẫy những khó khăn khác: như sức cạnh tranh của nông nghiệp còn thấp, chi phí lớn, nguồn nhân lực chất lượng cao còn ít, hạ tầng tuy được đầu tư nhưng so với yêu cầu còn thấp kém, chưa có khả năng ứng phó được với biến đổi khí hậu. Số phận của ĐBSCL vẫn như một ẩn số đang làm đau đầu các nhà quản trị.
Thay lời kết
Sau một năm, “Mekong Connect – CEO Forum” đã trở thành diễn đàn quan trọng của ĐBSCL. Về đối nội đã tăng cường liên kết dọc/ngang trong vùng để thúc đẩy hội nhập và phối hợp hành động vì sự phát triển bền vững của ĐBSCL, đã biết cách thu hút và tối ưu hóa nguồn lực tri thức trong từng cộng đồng để hỗ trợ cho quá trình đổi mới, đã khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp có tiềm năng của thế hệ trẻ tại tại ĐBSCL.
Muốn trở thành diễn đàn có uy tín nhất Việt Nam và quốc tế về Tiểu vùng Mekong, về đối ngoại, cần biết cách kết nối hiệu quả với các cơ quan chỉ đạo của Trung ương để vận động chính sách cho ĐBSCL, cần kết nối với các tỉnh thành khác trong cả nước để hợp tác phát triển và phối hợp hành động, và cần có kênh hiệu quả để vận động các chính phủ và nhà tại trợ quốc tế nhằm hậu thuẫn cho chiến lược phát triển ĐBSCL.
So với bài toán đố Formosa ở miền Trung là nan đề “bất khả thi” (Mission Impossible), bài toán đố ĐBSCL cũng nan giải, nhưng khả thi. Sứ mạng của “Mekong Connect” là “biến điều không thể thành có thể”, để góp phần giải bài toán đố ĐBSCL.
Nguyễn Quang Dy
Theo BSA.org.vn
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này