14:15 - 15/03/2017
Đừng đi săn một mình
Một chiếc áo sơmi sản xuất tại Việt Nam với mức giá 4,88 USD, nhưng giá thông quan tại cảng New York là 95 USD, nghĩa là gấp gần 20 lần.
Xét riêng về thuế giá trị gia tăng (VAT) là 10% thì Việt Nam thì chỉ thu được chừng 49 cent, chưa được nửa USD, còn công ty nhập khẩu ở Mỹ thì nhận được 9,5 USD cho khoản thuế này. Mức thu từ khoản thuế trên cũng cho thấy dù đơn hàng tăng nhiều thì đây cũng không phải là một chiến lược hiệu quả.
Đấy là một ví dụ mà tiến sĩ Philip Charles Zerrillo, đại học SME Singapore, đã hơn một lần nhắc đến khi đề cập đến Việt Nam. Và trong hội thảo về chuỗi cung ứng mới đây, ông lại tiếp tục nhắc đến. “Câu chuyện này đặt ra là làm sao chúng ta nhìn được tương lai và biết thị trường đang nói gì, có được sự kết nối, hiểu được nhịp đập thị trường không, đây là điều mà Việt Nam đang thật sự cần. Muốn thành một tay chơi trên trường quốc tế Việt Nam cần hiểu làm sao để lấy phần lớn chuỗi giá trị này. Chừng 300 người với đầy đủ thành phần gồm doanh nghiệp, nhà khởi nghiệp, chuyên gia và báo giới đã cùng đến nghe các chuyên gia của đại học SMU chia sẻ về câu chuyện tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, một điều mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực hiện được. Rất nhiều vấn đề đã được nhắc đến.
Chất lượng là sự đồng nhất?
Tiến sĩ Shantanaru Bhattacharya dẫn ví dụ về hai xạ thủ cùng tập bắn. Chỉ vào bức hình, ông nói người bên phải là người bắn tốt hơn, vì đã bắn trúng tâm, nhưng chỉ một mũi tên, còn các mũi tên khác thì cách xa. Trong khi đó, người bên trái không có mũi tên nào trúng hồng tâm, nhưng tất cả đều xoay quanh đó, với khoảng cách gần. Vậy trong hai người này ai là người bắn tốt hơn, giỏi hơn? “Chất lượng là làm sao chúng ta giảm thiểu các biến thể. Ngay khi anh xạ thủ bên trái không chạm vào tâm điểm nhưng mức độ đồng nhất của anh ta cao hơn bởi phần lớn những lần bắn của anh đều nằm gần tâm điểm, cho nên người bên trái thực ra lại là người giỏi hơn”.
Sự đồng nhất trong chất lượng, trong tiêu chuẩn là thông điệp ông muốn nhắc tới, và đó chính là chìa khóa để các doanh nghiệp có thể bước vào chuỗi cung ứng toàn cầu. “Một khi chúng ta đã đạt chuẩn để làm việc với các công ty toàn cầu thì sau đó công ty cần làm để dịch chuyển lên các chuỗi giá trị của công ty toàn cầu. Phải có 6 yếu tố: toàn cầu hóa, quản trị, chuyên môn hóa, phân khúc, phát triển chuỗi giá trị và phát triển thị trường”.
Nghiên cứu về mô hình phát triển, tiến sĩ Bhattacharya nhận thấy Ấn Độ, quê hương ông, cùng với Việt Nam “có một sự tương đồng” trong sự chậm chân so với mô hình phát triển của các nền kinh tế Đông Á từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc. Theo ông, có hai yếu tố mà quốc gia đông dân thứ hai thế giới này đang rất thiếu đó là chất lượng giáo dục và khả năng sáng tạo. “Dữ liệu từ diễn đàn kinh tế thế giới cho thấy rằng, vấn đề lớn nhất của Việt nam thứ nhất là nguồn nhân lực. Cho dù Việt Nam – Ấn Độ có sự giáo dục cao nhưng về kỹ năng khi những người tốt nghiệp xong có thể sẵn sàng tham gia làm việc ngay thì cả hai nước đều thiếu nhân lực có kỹ năng cao. Các công ty phải đầu tư rất nhiều cho việc huấn luyện nhân viên để tạo ra giá trị kinh tế”.
Tôi nhận ra rằng, người Việt Nam giống như diều hâu vậy, có tư duy đi săn nhưng thích đi săn một mình. Khi chúng tôi bắt đầu thành lập công ty của mình, chúng tôi nói rằng, không thể nào đi săn một mình được mà phải đi săn theo đàn. Vậy là chúng tôi có những đối tác Nhật Bản, Singapore, Mỹ, bởi vì khi đi thành đàn chúng ta sẽ mạnh hơn và đi nhanh hơn. Do đó sẽ tiếp cận thị trường hiệu quả hơn. Do đó chúng ta phải làm việc chung với nhau.
Ông Zulkifli Bin Baharudin, tổng giám đốc ITL
Mạng xã hội và cuộc trỗi dậy của bán lẻ
Theo TS. Kapil R. Tuli, tổng giám đốc TT Nghiên cứu bán lẻ, giáo sư ĐH SMU, ngành bán lẻ châu Á – Thái Bình Dương sẽ có mức tăng trưởng lên đến 11% trong năm năm tiếp theo, trong đó bán lẻ online đang phát triển mạnh mẽ, mức tăng trong 5 năm qua, lên tới 300%. Một điều thú vị mà ông nhắc đến đó là thương mại điện tử đang chuyển từ Ecomerce – mua trên máy tính, sang MComerce – mua hàng qua điện thoại di động. “Người dân châu Á đang mua hàng hóa nhiều hơn trên ĐTDĐ. Con số rất ngạc nhiên, có tới 1.600 tăng trưởng dựa trên bán lẻ của ĐTDĐ. Đây mới chỉ là khởi đầu bởi chúng ta có 4,7 nghìn tỉ USD về bán lẻ. Trung bình thì các cửa hàng hiện hữu là 11% tăng trưởng, online là 300%, mobile là 1.600%”. Tiềm năng của lĩnh vực này, theo ông Tuli, là rất lớn khi số lượng người sử dụng internet, và điện thoại di động ở Việt nam đang rất cao.
Mạng xã hội chính là một trong những yếu tố nổi trội. Theo ông, con số người đăng ký sử dụng mạng xã hội là 2,8 tỉ người, 37% những người này yêu mạng xã hội. 77% người Singapore đều sử dụng mạng xã hội, còn Việt Nam là 48%. “Ở Việt Nam một người dành ra 2,59 giờ mỗi ngày trên mạng xã hội, Singapore là 2,47 giờ, cao nhất là Philippines với 4,71 giờ. Từ khía cạnh marketing, nếu người tiêu dùng dành quá nhiều thời gian trên một kênh phân phối như thế thì câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể làm gì để hiển diện trên đó và tận dụng nó. Những quảng cáo của chúng ta không đơn thuần là kinh doanh nội dung mà còn là mức độ về tương tác,
bởi ngày nay bất kỳ ai cũng có thể nói chuyện với nhau và người tiêu cũng có thể nói chuyện”.
Theo tiến sĩ Tuli, các công ty lớn trên thế giới đang tích cực tương tác với người tiêu dùng trên mạng xã hội. “Chúng ta học được gì từ họ? Đó là hãy giữ tất cả khách hàng của mình trên một kênh. Nếu mình yêu cầu những người sử dụng mạng xã hội sang một website thì 50% số người đó không bao giờ đến…
“Với tư cách một người quản lý thương hiệu cũng như mạng xã hội, tôi muốn nói rằng chúng ta hãy tìm hiểu xem bao nhiêu phần trăm người dùng đang ở trên mạng xã hội, họ dành ra bao nhiêu phần trăm trên đó. Nếu như đúng là 47% người Việt đang ở trên mạng xã hội và họ dành hơn 2 giờ trên đó thì mạng xã hội sẽ trở thành kênh giao tiếp và kết nối với họ đến mức nào”, ông nói.
Trần Phi
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này