09:18 - 02/11/2016
Cô trợ lý kỳ lạ
Sau một cuộc phỏng vấn không giống ai, cô cử nhân sư phạm Nga dấn thân vào ngành y ở một bệnh viện quốc tế, nơi kiến thức và kinh nghiệm về ngành của cô chỉ là “hồi bé có nằm bệnh viện”.
Thế rồi qua nhiều trải nghiệm, cô vững chắc ở vị trí giám đốc điều hành.
Những điều kỳ kỳ
Một buổi sáng thứ bảy, bà Mai gõ cửa một căn nhà. Một ông Tây người Pháp quần đùi áo hoa ra tiếp chuyện, hỏi han vài thứ xã giao như làm gì, ở đâu…
“Tiếng Anh cũng không dễ hiểu lắm, nhưng đại loại là giao tiếp hai bên hiểu nhau. Sau đó ông bảo thứ bảy tuần sau đi làm nhé. “Tôi nghĩ. Nhanh thế ư?”, và hỏi “Ông không cần hỏi gì thêm à?” Ông bảo, không cần, OK rồi!”
Nhưng bà Mai lại thấy “chưa OK” được. “Thứ nhất, dự án của ông là một bệnh viện rất tốt. Nhưng tôi không biết gì về bệnh viện. Tôi chỉ thích mỗi một điều đó là tính nhân văn. Thứ hai, tôi không biết tiếng Pháp, chỉ biết tiếng Anh, và Nga. Ông có chắc là nhận tôi không?” “Chắc”.
“Và cuộc phỏng vấn kết thúc. “Một cuộc phỏng vấn mà cả hai bên đều cảm thấy có cái gì đó… kỳ kỳ”, bà Mai nhớ lại.
Thế là thu xếp nghỉ công ty cũ, bà Mai bước vào cuộc phiêu lưu mới. Nói là phiêu lưu bởi khi đó “dự án hết sức mù mịt”, và chưa có gì cả. Thế là, cô trợ lý dự án bắt đầu công việc của mình từ đầu. Tiếng là trợ lý, nhưng vì “thời gian đấy, sếp cứ đi đi về về, chủ yếu lo kêu gọi vốn từ bên Pháp”.
Vậy là phải tự lo, từ đi thuê văn phòng, mua bàn ghế, máy tính, đường truyền điện thoại, tuyển lái xe, nhân viên vệ sinh, thư ký, rồi đọc cả đống tài liệu về dự án…
“Tôi cứ lụi hụi làm! Lâu lâu gửi email cho sếp ở Pháp. Khi sếp bay sang Việt Nam lại cũng lụi hụi làm, họp từ sáng đến 10 giờ đêm, liên tục… Rảnh rỗi thì “hai thầy trò xách balô lên và đi… ra đường Nguyễn Thị Minh Khai mua bàn ghế, máy móc…”
Nhưng được một thời gian, bà Mai bảo mình “bỗng thấy oải, vì cứ lụi hụi làm, sếp cũng lụi hụi làm mà “chẳng hỏi han hay đánh giá, nhận xét gì”. Lỡ mình làm sai thì sao? Có điều gì sếp không hài lòng chăng?
Sau cuộc phỏng vấn “kỳ kỳ”, công việc làm kiểu này cũng “chưa bao giờ gặp”. Ít ra đi làm cũng phải có nhận xét làm được, làm được. Chứ đằng này, sáng đến gặp nhau chào, rồi họp, rồi… “Khối lượng công việc rất nhiều, nhưng cái cần là sự công nhận, nhận xét”.
Đem băn khoăn của mình tâm sự với cô bạn, vốn làm công ty luật cho dự án. Cô bạn sợ bà Mai nghỉ, thế là tâm sự. Bà Mai bảo ít nhất cũng phải có một bảng mô tả công việc để biết mình làm gì.
Cô bạn trả lời: “Chuyện nhỏ! Để tớ lo”! Một tờ giấy được lấy ra. Hai dòng chữ được viết xuống: Do the things that you need to do. Do the things that should have been done! (Tạm dịch: Hãy làm những việc bạn thấy cần phải làm. Hãy làm những việc bạn nghĩ lẽ ra phải làm).
“Đó là một bảng mô tả công việc kỳ lạ”, bà Mai nhớ lại. Sáng hôm sau, vừa đến cơ quan, sếp cô, sau lời chào, nhận xét: “Cô làm tốt lắm. Tôi còn chẳng nghĩ ra được mấy thứ việc đó. Cứ thế mà làm nhé!”
Sau đó, ổn định, đường đi nước bước đã thấy được, thế là mạnh dạn sắp xếp. Marcel chỉ gật đầu: Yes, boss! (Vâng! Thưa sếp!)
Thấm thoắt đã 14 năm, bà Mai, Phạm Thị Thanh Mai, giờ là giám đốc điều hành, và sếp bà chính là bác sĩ Jean Marcel Guillon, tổng giám đốc công ty TNHH Y tế Viễn Đông, tức bệnh viện FV.
Sở dĩ vị bác sĩ người Pháp này giao hết công việc cho cô trợ lý ở TPHCM, là vì ông đang lo đi tìm vốn để đầu tư cho dự án bệnh viện quốc tế đầu tiên đó. Khi đó, ông lần mò dữ liệu của khoảng 50.000 bác sĩ ở Pháp, từ nhiều nguồn.
Tháng 8/2000, ông tự tay mình mang từng thùng cáctông, chứa các lá thư dày cộp hồ sơ dự án, gửi cho hàng ngàn bác sĩ để gọi vốn.
“Tháng 9/2000, tôi nhận được 52.000 USD. Tháng 10 con số này là 175.000. Tháng 11: 250.000 và tháng 12 là 520.000. Đến cuối năm 2002 là 11 triệu USD”.
Tổng cộng ông nhận được 12 triệu đôla Mỹ từ 499 bác sĩ. Gọi được vốn, bác sĩ Guillon tự tin đi gặp các ngân hàng như ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), một ngân hàng của Pháp và BIDV.
Bốn tổ chức tín dụng này đồng ý tài trợ 26 triệu đôla Mỹ. Thêm cả khoản vay từ IFC, ADB và một vài ngân hàng khác, tổng cộng là 40 triệu USD.
Văn phòng ở quận 1 ngày một đông hơn, lên tới 40 người. Được một năm, mọi người cùng chuyển về quận 7, trụ sở của FV hiện tại.
Bà Mai lúc này được tham gia các cuộc họp của các cấp lãnh đạo, và học hỏi thêm được nhiều thứ, tay nghề quản lý cũng lên theo. Không chỉ còn sắp xếp lịch hội họp, bà bắt đầu tham gia góp ý kiến, phát biểu… và cả tư vấn cho các giám đốc.
“Làm việc mà hiểu được ý của Jean Marcel là không dễ”, nhưng tôi hiểu được. Và thế là cô cử nhân sư phạm Nga từng bước thăng tiến, giám đốc phát triển kinh doanh, giám đốc điều hành, giám đốc quản lý các hoạt động bệnh viện.
Những bệnh nhân đặc biệt
FV khai trương trong lúc dịch SARC đang hoành hành. Nhưng đó chưa phải là điều tồi tệ nhất. Ở Hà Nội, một bệnh viện có tên khá tương tự: Việt Pháp đã hoạt động dính SARS.
Thế là báo chí viết lên khiến nhiều người ngộ nhận “FV có dịch SARS và bị cách ly”. Ngày khai trương, 200 nhân viên FV ngóng cổ chờ bệnh nhân mà chẳng thấy ai. Cuối cùng thì cũng có một chuyến xe đò biển số tỉnh trờ tới.
Khoảng 50 khách hàng – bệnh nhân quần đùi, áo cộc, dép lê từ đồng bằng sông Cửu Long nghe tin rủ nhau thuê xe lên. Họ toả đi khắp FV, ngồi vắt chân, gác chân lên ghế…
Các chuyên gia, bác sĩ nước ngoài trố mắt nhìn nhau. Căng rồi! Bệnh nhân sao lại cứ ngồi gác chân lên ghế được! Sao lại chân không giày dép? Làm sao thế được? Bà Mai cười: Được hết! Họ là bệnh nhân mà!
Và rồi, mọi thứ khấm khá lên. Nhưng FV lại “dính” vào một vụ khác. Tháng 8/2012, bệnh viện đối mặt với trận chiến truyền thông sau khi một bệnh nhân, thân nhân của một nhân vật thuộc dạng người của công chúng, bị tử vong.
Báo chí rùm beng! Người của FV lên báo để bào chữa, tranh luận. Nhưng điều đó chỉ đổ thêm dầu vào lửa. Guillon gọi đó là một cuộc khủng hoảng.
“Chúng tôi loay hoay mất gần cả năm trời, nhiều bệnh nhân không quay trở lại, bệnh nhân mới không đến. Năm đó, tỷ lệ bệnh nhân đến giảm đến 15– 18%, và một số khoa tới 50%”.
Cuối cùng, tháng 11/2012 hội đồng chuyên môn bộ Y tế kết luận rằng FV không liên quan trực tiếp đến cái chết đó. Bài học rút ra là những vấn đề về chuyên môn hãy để cho hội đồng chuyên môn làm việc, đưa ra kết luận.
Năm 2013, khoảng 200.000 bệnh nhân đến khám chữa bệnh, doanh thu đạt khoảng 40 triệu USD. Đến nay, đã có đến hơn 3,2 triệu lượt bệnh nhân đến khám chữa bệnh tại FV. Tổng vốn đầu tư đã lên tới hơn 60 triệu USD.
Bà Mai kể rằng những bệnh nhân thời đầu, rất nhiều người lớn tuổi tìm đến “chỉ vì họ muốn được nói tiếng Pháp thứ ngôn ngữ tưởng đã ngủ yên, không biết nói ở đâu!”, “Họ đến, hãnh diện và háo hức nói: Bonjour! Gặp hộ lý họ kêu lên: Sage Femme!…”, bà Mai nhớ lại.
Nhưng chính vì danh tiếng của người Pháp lại dẫn đến một “rắc rối” khác. Theo lời kể của bà Mai, có một nhóm bệnh nhân “đặc biệt”. Đó là những người tin vào phép màu của nền y tế Pháp.
Một lần, các thanh tra từ sở Y tế kiểm tra “phát hiện” ra rằng tỷ lệ bệnh nhân tử vong của FV “quá cao” so với các bệnh viện khác. Câu hỏi được đặt ra: FV điều trị như thế nào để bệnh nhân chết nhiều như thế?
Khi nghe bà Mai phiên dịch câu hỏi, bác sĩ Jean Marcel trố mắt: làm sao có thể hiểu một cách méo mó như vậy? Làm sao lại có chuyện căn cứ trên tỷ lệ bệnh nhân tử vong để kết luận là bệnh viện điều trị không tốt?
Hoá ra, có sự hiểu lầm. “Khi mở cửa bệnh viện, chúng tôi nhận rất nhiều bệnh nhân… sắp chết. Nghĩa là các bệnh nhân đã đi điều trị khắp nơi rồi, hết cách chữa rồi, đến khi nghe tin một bệnh viện hiện đại, quốc tế, bác sĩ Tây, họ tìm đến để thử vận may.
“Thực sự, nhiều bệnh nhân được điều trị tốt, nhất là các bác sĩ Tây điều trị các ca khó, các bệnh viện khác trả về. Những ca ung thư vòm họng, ung thư thực quản, cắt đoạn ruột già nối lên trên… Tất nhiên, không phải tất cả các ca FV đều chữa lành, cứu được”.
Câu chuyện trên phản ánh một thói quen hành nghề y tế tại Việt Nam: rất nhiều bệnh viện từ chối điều trị những bệnh nhân… khó chữa.
Mỗi khi, gặp những ca như vậy, các bác sĩ thường khuyên: thôi gia đình nên đưa về để lo hậu sự. “Với các bác sĩ Pháp thì ngược lại: họ phải cứu bệnh nhân đến phút chót”, bà Mai nói.
Bà Mai nhớ lại chuyện mình tham gia “viết và dịch” một trong những quy trình đầu tiên của FV là “Đối xử với bệnh nhân tử vong”.
Khác với các bệnh viện khác, mỗi khi có ca tử vong xảy ra, người ta nhanh chóng phủ kín và đẩy xuống nhà xác, ở FV tổ chức các khâu giải thích với người nhà, dành cho người nhà hai tiếng đồng hồ để tiễn biệt, sau đó mới đưa xuống nhà xác. Cả chuyện lo mời nhà chùa hay nhà thờ cũng được FV lo liệu.
“Đến nay, tôi thấy chưa có bệnh viện nào khác làm, vì người ta chỉ quan tâm đến phần chữa bệnh, chưa đủ điều kiện làm. Nhiều khi ta thấm thía câu danh ngôn ‘Ở đâu có điều kiện tốt thì con người mới được đối xử tử tế’ thì phải”.
Từ quy trình ban đầu đó, FV hiện có đến chừng 800 quy trình, trong đó tổng giám đốc Jean Marcel viết khoảng 70%.
Hồi tháng 3, FV đạt chứng chỉ JCI, một chứng chỉ về chất lượng cao nhất trong ngành y. Theo bà Mai, có JCI, bệnh viện sẽ an toàn hơn vì JCI tập trung vào bệnh nhân.
Trần Hoàng Phi
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này