14:47 - 18/01/2017
Bán gạo cần cái đầu chứ không phải đôi tay
Lần đầu tiên sau tám năm, xuất khẩu gạo của Việt Nam xuống dưới mức 5 triệu tấn. Đà tụt dốc này, đến từ nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất phải kể đến hạt gạo Việt Nam không kịp thức thời trước sự thay đổi lớn của thị trường.
Theo bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm 2016 chỉ đạt 4,88 triệu tấn với giá trị 2,2 tỉ USD, giảm 25,8% về khối lượng và giảm 21,2% về giá trị so với năm 2015.
Đây là năm có khối lượng xuất khẩu gạo thấp nhất trong vòng tám năm qua. Từ vị trí là mặt hàng đứng đầu về giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam, gạo lần lượt bị các nhóm hàng khác vượt qua như thuỷ sản, đồ gỗ, càphê, hạt điều và mới đây nhất là mặt hàng rau quả.
Xuất khẩu gạo của Việt Nam đã giảm ở hầu hết các thị trường xuất khẩu gạo tập trung, vốn trước đây những người công chức có thể ngồi ở nhà cũng bán được gạo. Như Trung Quốc giảm 20,5%; Philippines giảm 65%; Malaysia 48,1%; Indonesia 21,9%…
Lý do giảm, khá đơn giản, là những năm qua, các quốc gia này có chính sách khuyến khích và hỗ trợ nông dân trồng lúa để tăng sản lượng trong nước, giảm phụ thuộc nhập khẩu. Khi lượng sản xuất trong nước đã tăng lên thì lượng nhập khẩu, dĩ nhiên sẽ giảm xuống.
Ngoài ra, một lý do quan trọng khác, đó là với sản lượng gạo còn lại phải nhập khẩu, các quốc gia này, thay vì chỉ định một số đầu mối mua theo thoả thuận cấp chính phủ như trước, họ để cho các doanh nghiệp tư nhân đấu thầu, tự đứng ra mua. Với cách thức này, số tiền mà chính phủ các nước bỏ ra sẽ ít hơn, do mua được gạo với giá cạnh tranh, đồng thời xoá bỏ được tính độc quyền trong mua bán.
Những thay đổi của thị trường, không phải diễn ra từ năm 2016 mà đã cách đây hai năm. Do đó, việc cho rằng, các doanh nghiệp gạo Việt Nam chậm thay đổi để thích nghi, khiến sản lượng xuất khẩu tụt giảm thảm hại cũng có phần đúng, nhưng chưa đủ. Bởi, với bộ máy nhân sự vẫn như cũ (mới có ít công ty con của Vinafood 1 và hai cổ phần, nhưng Nhà nước vẫn nắm chi phối), cách thức vận hành như cũ thì rất khó đòi hỏi những người công chức này có thể bán được nhiều gạo hơn trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.
Đặc biệt, lợi thế cạnh tranh gạo giá rẻ của Việt Nam đang bị uy hiếp nghiêm trọng trước việc có thêm nguồn cung mới trên thị trường từ Campuchia hay Myanmar, Ấn Độ… Cùng với đó là thay đổi trong xu hướng tiêu dùng của khách hàng khi họ ngày càng đòi hỏi nhiều hơn về chất lượng, độ thơm ngon và khả năng truy xuất nguồn gốc.
Như vậy, trong suốt thời gian dài, hàng chục triệu tấn gạo của Việt Nam chỉ được bán qua “bàn tay” của những người công chức. Người tiêu dùng thế giới chỉ biết đến thương hiệu gạo Việt Nam với các đặc tính giá rẻ, 5%, 10%, 15%… tấm, gạo trắng, cơm cứng, nở xốp…
Còn lại, những cố gắng về việc lai tạo, chọn lọc ra các chủng loại giống lúa thơm chất lượng, rồi mang đi đấu xảo, đăng ký thương hiệu trước quốc tế giống như Campuchia đang làm, đã không được các doanh nghiệp nhà nước quan tâm.
“Bán gạo trong một tâm thế đắt rẻ gì không liên quan đến tôi. Nông dân làm ra gạo như thế nào thì tôi bán thế đó, miễn là bán hết sản lượng theo chỉ tiêu là được thì làm gì có gạo ngon, có thương hiệu nổi tiếng?”, một chuyên gia kinh tế nói về cách bán gạo của doanh nghiệp nhà nước, như vậy.
Một thống kế của viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VAPR) cho thấy, kể từ cuối thập kỷ 1980 cho tới tận bây giờ, ngành lúa gạo Việt Nam đã phát triển theo định hướng gia tăng sản lượng. Sản lượng lúa của Việt Nam đã tăng từ mức 19,23 triệu tấn vào năm 1990 lên 32,53 triệu tấn vào năm 2000 và trên 45 triệu tấn vào năm 2015.
Trong thập niên 1990, sản lượng lúa gạo tăng một phần vào việc mở rộng diện tích trồng lúa thì từ năm 2000 trở lại đây, chủ yếu chỉ dựa vào tăng năng suất, trong khi diện tích đất trồng lúa không thay đổi. Sự gia tăng sản lượng lúa gần như liên tục trong suốt hơn hai thập kỷ qua đã giúp Việt Nam không những đảm bảo an ninh lương thực trong nước, mà còn liên tục là một trong ba nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới.
Tuy vậy, những thành tựu đạt được của ngành lúa gạo Việt Nam hiện nay lại trở thành mối lo lắng của xã hội. Sản lượng lúa gạo tăng nhưng lại không kèm theo sự cải thiện thu nhập của người nông dân, mà kèm theo đó là nguy cơ đất trồng bị thoái hoá và ô nhiễm môi trường tăng cao.
Việc quá chú trọng đến tăng sản lượng dẫn đến chất lượng gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới thấp, và hệ quả là thị trường xuất khẩu bị phụ thuộc vào một số quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á.
Đã đến lúc, ngành lúa gạo cần tìm một hướng đi khác, từ việc sắp xếp lại doanh nghiệp bán gạo theo hướng cổ phần hết các doanh nghiệp nhà nước. Có như vậy thì đội ngũ bán gạo mới tập hợp được những người am hiểu thương trường quốc tế, biết ngoại ngữ và có đam mê kinh doanh. Họ coi việc thành bại trong buôn bán là uy tín, là sự ăn nên làm ra của công ty, mang lại cuộc sống cho chính họ chứ không phải như đội ngũ công chức bán gạo, thắng thua không quan trọng
vì đến tháng đều nhận đủ lương.
Khi đã xoá bỏ mô hình công ty kinh doanh gạo, thì cơ hội buôn bán sẽ mở ra cho mọi thành phần chứ không chỉ bó buộc cho một số doanh nghiệp được làm theo nghị định 109 mà dư luận đang bài cãi. Và một khi, mặt hàng lúa gạo không còn bị chi phối bởi bất cứ chính sách này, chính sách nọ làm méo mó thị trường thì chắc chắn lúc đó, doanh nghiệp sẽ biết cách trồng như thế nào, bán như thế nào cho có hiệu quả. Họ bán gạo từ cái đầu chứ không phải bằng đôi tay như trước.
Bảo Anh
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này