15:37 - 28/02/2017
Việt Nam hậu TPP
Ông Donald Trump trúng cử tổng thống và rút Mỹ khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang làm đau đầu giới lãnh đạo và giới kinh doanh các nước thành viên hiệp định này trong đó có Việt Nam.
Xem xét lại tầm nhìn chiến lược
Ông Phạm Phú Ngọc Trai, chủ tịch LBC đặt ra hàng loạt câu hỏi cho doanh nghiệp Việt thời kỳ hậu TTP như: doanh nghiệp Việt vượt khó như thế nào trước tình hình biến động của thế giới bên ngoài? Làm sao để quản trị sự thay đổi đó để vượt qua khó khăn để nắm bắt cơ hội và giảm thiểu rủi ro?
Từ đó, ông Phạm Phú Ngọc Trai khuyên doanh nghiệp cần nhận thức được tác động từ những hiệp định, chính sách, để tái cấu trúc lại tầm nhìn, xem xét lại chiến lược kinh doanh, ngành hàng của doanh nghiệp mình để có những quyết sách phù hợp với tình hình hiện tại.
Ông cũng nói thêm “Dù có TPP hay không có thì doanh nghiệp Việt cũng cần làm những công việc trên một cách chuyên nghiệp hơn” và doanh nghiệp muốn nâng nội lực của mình lên thì sự hiểu biết về môi trường kinh doanh phải ngày càng càng cải thiện.
Sự hợp tác sau TPP giữa các địa phương của từng quốc gia
Nói về hậu TPP, TS Trương Minh Huy Vũ, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS), ĐH KHXH&NV TPHCM cho hay, trong quá trình bàn thảo và đàm phán TPP, giữa những quốc gia tham gia ký kết đã có những cuộc tiếp xúc qua đó hình thành được nhóm đồng minh chiến lược trong quan hệ thương mại.
Theo TS Vũ, “TPP chỉ là một cớ để thúc câu chuyện xa hơn, đó là chuỗi giá trị trong nông nghiệp. Chuỗi giá trị này không phải nằm ở một cộng đồng, quốc gia mà nằm ở các địa phương, các tỉnh”.
Cụ thể, trong thời gian đàm phán TPP giữa Việt Nam và Nhật bản đã có rất nhiều những cuộc tiếp xúc, nhận định về những cuộc tiếp xúc này ông Vũ có dẫn chứng.
“Một học giả của Viện nghiên cứu Nhật Bản từng nói rằng, điểm sáng mà ông nhận thấy hiện nay là việc đưa cá ngừ Bình Định vào chuỗi sản xuất của Nhật và giúp người dân tham gia trong chuỗi này”, hay như Lâm Đồng trồng rau sạch, và sắp tới là Tây Ninh làm chợ đầu mối với Nhật Bản, đó là những câu chuyện địa phương.
Khi bàn về phụ thuộc kinh tế, ông Vũ thẳng thắn nhận định rằng có một số địa phương vẫn phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc nhưng một số địa phương khác sẽ có đối tác khác như Nhật Bản, Hàn Quốc.
TS Vũ cho rằng, việc xây dựng chuỗi nông sản như thế sẽ giúp đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa đối tác chiến lược, và quan trọng hơn, giúp lãnh đạo địa phương tự tin hơn trong việc thảo luận các vấn đề chiến lược khi yếu tố Trung Quốc không phải là duy nhất.
“Câu chuyện về chuối ở Philippines và than đá ở Bắc Hàn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, nếu có xung đột diễn ra thì trong bao lâu sẽ tìm ra được một thị trường tương tự và giá cả như thế nào”.
Tất cả những điều đó đòi hỏi Việt Nam phải suy nghĩ cho mình trong việc hợp tác với các nước.
Do đó, dù TPP không còn nhưng quán tính của nó giúp cho sự hợp tác giữa các địa phương của Việt Nam và Nhật Bản hợp tác với nhau, hình thành các chuỗi giá trị.
“Đó mới là tương lai của ta, tương lai này sẽ mang tính thẩm thấu hơn trong thời gian tới và mang tính bền vững và lâu dài”, ông Trương Minh Huy Vũ khẳng định
Con đường cổ phần hóa
Trong khi đó, TS Trần Toàn Thắng, Phó ban Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW lại chia sẻ góc nhìn khác về việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Ông Thắng dẫn một nghiên cứu về “Tác động lan tỏa của doanh nghiệp FDI với DN trong nước”. Và kết luận, DN FDI có tác động tiêu cực ở mức nhất định với DN trong nước và làm tăng xác suất đóng cửa của doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nếu không cải cách doanh nghiệp nhà nước thì doanh nghiệp tư nhân sẽ có tỉ lệ đóng cửa cao hơn.
Một nghiên cứu mới của Viện quản lý kinh tế TW về “ngân sách mềm” của doanh nghiệp nhà nước. Theo đó các vấn đề lớn nhất của DNNN là: là quản trị, mô hình, đại diện và quy mô.
Ông Thắng cho rằng, nhiều người lo lắng việc cổ phần hóa quá nhanh sẽ dẫn đến mất vốn nhà nước nhưng việc cổ phần hóa này được làm theo lộ trình lâu dài thì lại tạo sức ép lớn cho nền kinh tế.
Vậy vấn đề đặt ra là ai là người hưởng lợi trong cơ chế hiện nay, đó là doanh nghiệp nhà nước với cơ chế quản lý chưa tốt và cá nhân những người quản trị trong những doanh nghiệp này.
Nếu chúng ta muốn cổ phần hóa nhưng lại không muốn mất vốn nhà nước, không muốn thiệt hại cho từng cá nhân hoặc cho DNNN thì đây là bài toán rất khó.
T.Quỳnh
Theo BSA
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này