16:22 - 08/04/2016
Có ‘tận thu’ không khi buộc NLĐ ở nước ngoài tham gia BHXH?
Mặc dù hướng đến mục đích an sinh xã hội nhưng việc phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là không phù hợp, sẽ tăng gánh nặng cho người lao động, khiến NLĐ cảm thấy bị “tận thu”.
Có thể nói luật Bảo hiểm xã hội 2014 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2016) còn có quá nhiều điều bất cập, chưa thoả đáng, trong đó có quy định người lao động (NLĐ) là công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
“NLĐ” trong trường hợp này là những công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ hoặc tổ chức sự nghiệp được phép đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài; với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài; hoặc hợp đồng theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa NLĐ đi làm việc theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề và cuối cùng là hợp đồng cá nhân.
Một đặc điểm của nhóm NLĐ này là thông thường có thu nhập thấp, rất nhiều NLĐ từ các vùng nông thôn cố gắng để được đi xuất khẩu lao động nhằm kiếm một khoản tiền cho con cái ăn học, một khoản tiết kiệm nhỏ để lấy vốn làm ăn khi về nước hay để xây sửa lại nhà cửa…
Tuy nhiên, thông thường mỗi người sẽ mất một nửa thời gian trong khoảng ba năm làm việc mới có thể trả hết các khoản đã vay mượn để làm thủ tục xuất khẩu lao động.
Khi làm việc tại nước sở tại, NLĐ cũng phải tham gia các chế độ bảo hiểm xã hội theo luật pháp nước đó; cùng với chi phí sinh hoạt đắt đỏ (như Nhật Bản…) khiến họ phải vô cùng tiết kiệm, tăng cường làm thêm giờ mới có thể dành dụm được ít nhiều.
Vì vậy, mặc dù hướng đến mục đích an sinh xã hội nhưng việc phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là không phù hợp, sẽ tăng gánh nặng cho người lao động, khiến NLĐ cảm thấy bị “tận thu” nên không hề muốn tham gia.
Có thể kể một số bất hợp lý như:
Thứ nhất, mức đóng mang tính chất cào bằng và quá cao (bằng 22% mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của NLĐ trước khi đi làm việc ở nước ngoài, đối với NLĐ đã có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; bằng 22% của hai lần mức lương cơ sở đối với NLĐ chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng đã hưởng bảo hiểm xã hội một lần).
Thứ hai, so với NLĐ làm việc trong nước, lao động xuất khẩu phải đóng ba tháng, sáu tháng, 12 tháng một lần hoặc đóng trước một lần theo thời hạn ghi trong hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài.
Thứ ba, rất nhiều lao động xuất khẩu sau khi về nước thì không tiếp tục làm việc cho các doanh nghiệp mà làm theo diện hộ kinh doanh, buôn bán nhỏ lẻ hoặc làm nông nghiệp… Do đó, họ không quan tâm nhiều và thậm chí là không cần đến hai chế độ tử tuất và hưu trí mà họ sẽ được hưởng.
Thứ tư, NLĐ còn có thể bị truy thu, truy đóng tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắ t buộc đối với NLĐ, người sử dụng lao động đóng bù thời gian chưa đóng của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động.
Trường hợp sau sáu tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động về nước mới thực hiện truy đóng bảo hiểm xã hội, thì số tiền truy thu bảo hiểm xã hội được tính bao gồm số tiền phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định và tiền lãi truy thu tính trên số tiền phải đóng.
Do đó, tôi cho rằng thay vì quy định là chế độ bảo hiểm bắt buộc, chúng ta cần nghiên cứu xem xét chuyển sang chế độ bảo hiểm tự nguyện.
Theo đó, tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho NLĐ biết về những mục tiêu, lợi ích của việc tham gia bảo hiểm xã hội và để NLĐ cân nhắc, xem xét tham gia, tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội và phù hợp với tình hình thực tiễn.
LS Nguyễn Văn Hậu (phó chủ tịch hội Luật gia TPHCM)
Thế Giới Tiếp Thị
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này