10:14 - 03/07/2016
Bộ KH-ĐT: Vướng mắc từ 6 thủ tục vẫn ‘hành’ DN
Bộ KH-ĐT chỉ ra hàng loạt vấn đề trong 6 thủ tục với hàng hóa xuất nhập khẩu đã được các doanh nghiệp phản ánh nhiều lần, qua nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nhưng vẫn chưa được giải quyết.
Lý do, quản lý, kiểm tra chuyển ngành quá mức cần thiết đang là lực cản cơ bản đối với cải cách cải thiện chỉ số giao dịch thương mại qua biên giới – một trong 10 chỉ số chủ chốt về môi trường kinh doanh, làm tăng chi phí bất hợp lý và tạo gánh nặng hành chính quá mức đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, theo Bộ KHĐT, thực tế cho thấy vẫn tồn tại khá nhiều vấn đề, khó khăn và vướng mắc của doanh nghiệp đã được phát hiện, phản ánh nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, nhưng vẫn chưa được giải quyết, gây bức xúc cho doanh nghiệp.
Bất cập dán nhãn năng lượng
Thông tư số 07/2012/TT-BCT quy định dán nhãn năng lượng cho các phương tiện và thiết bị sử dụng năng lượng. Mục đích dán nhãn năng lượng là để khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Tuy nhiên, quy định và việc thực thi trên thực tế còn nhiều bất hợp lý, gây khó khăn, tốn kém cho doanh nghiệp và có thể chưa đạt được mục tiêu quản lý nhà nước.
Cụ thể là, có quy định tại Thông tư trái Luật Năng lượng; hồ sơ, giấy tờ quá nhiều, trong đó nhiều loại giấy tờ, doanh nghiệp nhập khẩu rất khó, thậm chí không thể đáp ứng được; có thủ tục đưa ra không rõ ràng, không cụ thể, không hợp lý; xử lý thủ tục hành chính chủ yếu là thủ công.
Hàng trăm tỷ đồng cho kiểm tra formaldehyt
Do những bất cập trong quy định của Thông tư số 32/2009/TT-BCT về kiểm tra hàm lượng formaldehyt trong sản phẩm dệt may, Nghị quyết 19 ngày 12/3/2015 đã yêu cầu Bộ Công thương sửa đổi, bổ sung Thông tư 32. Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 37/2015/TT-BCT thay thế Thông tư 32.
Tuy vậy, theo ý kiến của Hiệp hội Dệt may và một số doanh nghiệp có liên quan thì Thông tư số 37 chưa thực sự tạo thuận lợi, mà trái lại còn gây khó khăn, làm tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp.
Ví dụ trong tháng 3 và tháng 4 năm 2016, có doanh nghiệp dệt may nhập khẩu 96 hàng mẫu, với trọng lượng và giá trị là rất nhỏ.
Có hàng mẫu (vải) chỉ 5-10m với giá trị chỉ khoảng 100.000-200.000 đồng, nhưng phí kiểm tra formaldehyt mà doanh nghiệp phải trả là 2 triệu đồng, cao gấp 10-20 lẩn giá trị hàng mẫu.
Nhìn xa hơn, suốt 7 năm áp dụng kiểm tra formaldehyt cho thấy chỉ có một tỷ lệ nhỏ không đáng kể lô hàng không đạt hàm lượng quy định và chưa phát hiện bất cứ trường hợp nào bị ảnh hưởng về sức khoẻ do hàm lượng formaldehyt cao quá mức quy định.
Trong khi đó, 7 năm qua, doanh nghiệp phải trả hàng trăm tỉ đồng chi phí cho việc kiểm tra formaldehyt, thời gian thông quan hàng hoá bị kéo dài.
Thủ tục xác nhận khai báo hóa chất: Trái luật?
Khoản 11 Điều 1 Nghị định 26/2011/NĐ-CP và Thông tư 40/2011/TT-BCT quy định về “Xác nhận khai báo hoá chất” do Bộ Công thương cấp.
Bộ KHĐT khẳng định quy định này là trái với Luật Hoá chất 2007. Luật này chỉ quy định doanh nghiệp phải khai báo, Bộ Công thương quy định biểu mẫu khai báo, không có quy định yêu cầu phải có xác nhận khai báo đó của doanh nghiệp.
Ngoài ra, quy định về “xác nhận khai báo hoá chất” không có ý nghĩa về quản lý nhà nước, gây tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, kéo dài thời gian thông quan trong trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu hóa chất.
Từ năm 2015, phí xác nhận khai báo hoá chất là 200.000 đồng/giấy xác nhận. Theo một khảo sát năm 2015 của Dự án GIG (USAID), mỗi năm Cục Hoá chất cấp khoảng trên 50.000 Giấy xác nhận khai báo hóa chất, mất thời gian 1-3 ngày/lô hàng.
Như vậy, việc xác nhận khai báo hóa chất theo quy định hiện hành đã làm cho doanh nghiệp tốn mất 50.000 đến 150.000 ngày làm việc/năm và khoản chi phí chính thức là khoảng 10 tỷ đồng.
Gánh nặng thủ tục kiểm dịch bông
Trong năm 2015, Việt Nam nhập khẩu trên 1 triệu tấn bông xơ, với khoảng 20 tấn/container, tổng cộng đã có khoảng 50.000 container bông được nhập khẩu.
Với tỷ lệ lấy mẫu kiểm dịch trung bình 35% thì lượng container bông phải lấy mẫu kiểm dịch thực vật năm 2015 lên đến 17.000 – 18.000 container.
Với mức chi phí kiểm dịch là 1 triệu đồng/container thì tổng chi phí kiểm dịch thực vật lên đến 17 – 18 tỷ đồng/ năm.
Theo Bộ KHĐT, đây là gánh nặng rất lớn về chi phí, nhân công và thời gian của doanh nghiệp, và do vậy làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Trong khi đó, theo phản ánh của các doanh nghiệp, thời gian qua, tất cả các lô bông nhập khẩu phải kiểm dịch thực vật không phát hiện ra sâu bọ, côn trùng hoặc mầm bệnh gây hại.
Hơn nữa, bông sợi là một sản phẩm nông nghiệp nhưng đã qua quy trình chế biến công nghiệp. Trước đây, bông xơ không phải thực hiện kiểm dịch thực vật.
Khoảng 4 năm trước, do có 1-2 lô bông nhập khẩu từ Pakistan về Việt Nam trong mùa mưa, bông bị ướt và sinh ra bọ.
Từ thời điểm đó, Bộ NNPTNT thực hiện áp dụng quy trình kiểm dịch thực vật đối với bông nhập khẩu với Thông tư 30/2014/TT-BNNPTNT và Thông tư 33/2014/TT-BNNPTNT.
Về ghi nhãn hàng hóa với nguyên liệu nhập khẩu để chế biến xuất khẩu
Thời gian qua, một số doanh nghiệp thủy sản đã bị các Đoàn kiểm tra quản lý thị trường xử phạt với lý do nguyên liệu thủy sản nhập khẩu (để chế biến xuất khẩu) lưu tại kho của doanh nghiệp chỉ có nhãn tiếng Anh, không có nhãn phụ tiếng Việt. Nội dung ghi nhãn hàng hóa được quy định tại Nghị định 89/2006/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT.
Bộ KHĐT cho rằng việc áp dụng ghi nhãn phụ tiếng Việt đối với trường hợp này là không cần thiết, không hợp lý bởi nếu nguyên liệu không lưu thông, tiêu thụ trong nước thì việc yêu cầu ghi nhãn phụ tiếng Việt không có ý nghĩa về quản lý nhà nước, lại phiền hà về thủ tục, tốn kém về thời gian và chi phí của doanh nghiệp.
Về thủ tục công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm với nguyên liệu nhập khẩu để chế biến xuất khẩu
Theo Điều 3 Nghị định 38/2012/NĐ-CP, đối với trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu để gia công, chế biến hàng xuất khẩu, không lưu thông, tiêu thụ trong nước thì không phải thực hiện công bố hợp quy, công bố phù hợp quy định an tòan thực phẩm.
Tuy nhiên, trên thực tế, doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu để gia công, chế biến hàng xuất khẩu vẫn phải thực hiện thủ tục này với Bộ Y tế, gây tốn kém về thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Theo phản ánh của Hiệp hội Thủy sản và một số doanh nghiệp liên quan, để có được giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy do Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế) cấp (trên cơ sở kết quả kiểm nghiệm do doanh nghiệp cung cấp) tốn trung bình 22-27 ngày làm việc và chi phí 500.000 đồng/sản phẩm.
Thời gian cấp giấy tiếp nhận kéo dài và việc cấp giấy tiếp nhận chỉ được thực hiện ở Bộ Y tế là không đúng theo tinh thần cải cách quản lý chuyên ngành của Nghị quyết 19 nhằm giảm thời gian, giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Theo Chinhphu.vn
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này