12:07 - 11/07/2020
Sắt không phải lúc nào nhiều cũng là tốt
Trong cơ thể chúng ta, sắt được xem là nguyên tố vi lượng không thể thiếu. Người ta hay nói đến thiếu sắt gây ra những hệ luỵ cho sức khoẻ, mà không biết dư thừa chất này trong cơ thể cũng không tốt gì.
Tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ Việt Nam dao động từ 30 – 50%. Thiếu máu thiếu sắt gây hậu quả nặng nề đối với sức khoẻ trẻ em và người lớn, đặc biệt ở phụ nữ vì họ hay bị mất máu trong kỳ kinh. Thiếu máu ở phụ nữ làm tăng nguy cơ tai biến và tử vong mẹ trong cả thời kỳ mang thai và sinh nở.
Với các ảnh hưởng nặng nề của thiếu máu do thiếu sắt, việc phòng ngừa, phát hiện sớm và có kế hoạch điều trị kịp thời, là can thiệp có hiệu quả trong việc nâng cao sức khoẻ và giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em. Bổ sung sắt bằng uống viên thuốc bổ sung và chế độ dinh dưỡng, là cách để giảm tỷ lệ bị thiếu máu do thiếu sắt.
Tuy vậy, cơ thể chúng ta cũng có một số dạng bệnh lý gây ứ sắt trong cơ thể, dẫn đến dư thừa sắt. Thiếu sắt sẽ không ổn, nhưng khi dư thừa sắt lại trở thành chất gây hại cho cơ thể, làm tổn hại các tế bào, nhất là tế bào gan, nơi dự trữ sắt trong cơ thể.
Bệnh lý gây thừa sắt phổ biến nhất là hemochromatosis, gọi là bệnh ứ sắt trong gan. Bệnh này ít gặp nhưng không hiếm, trung bình cứ 200 người có 1 người bị bệnh này. Nam giới bị hemochromatosis dễ phát triệu chứng hơn nữ, do nữ có chu kỳ kinh nguyệt giúp thải bớt sắt ra khỏi cơ thể.
Ngoài gan, trong bệnh hemochomatosis sắt còn ứ tại tim, hệ nội tiết. Gan bị ứ sắt lâu ngày sẽ dẫn đến xơ gan và ung thư gan, còn tim sẽ bị suy và loạn nhịp, trong khi ứ sắt ở tuỵ lại dễ dẫn đến bệnh đái tháo đường.
Khi được chẩn đoán bệnh xác định, việc điều trị hemochromatosis phụ thuộc vào lấy sắt ra khỏi cơ thể bằng cách rút máu ra khỏi cơ thể cho đến khi nồng độ sắt trở về mức bình thường. Ngoài ra, việc ăn uống sao cho ít đưa sắt thêm vào cơ thể cũng rất quan trọng, giúp giảm bớt tần suất rút máu khỏi cơ thể.
Sắt trong thức ăn có hai loại là non-heme và heme. Sắt heme có nhiều trong thịt đỏ và hải sản, còn sắt non-heme có nhiều trong thực vật hơn. Cơ thể hấp thu sắt heme tốt hơn non-heme nhiều. Vitamin C là chất giúp tăng cường hấp thu sắt non-heme.
Năm 2004, Teucher và cộng sự đã nghiên cứu sự hỗ trợ của vitamin C lên hấp thu sắt. Trong khi đó chất phytate trong thực vật lại làm cơ thể giảm hấp thu sắt. Như vậy, nếu cần giảm hấp thu sắt, ta phải ưu tiên chế độ ăn nhiều ngũ cốc, rau quả và trái cây, vừa cung cấp phytate và cung cấp chất chống oxy hoá như vitamin E, flavonoid, giúp giảm tác hại của sắt dư thừa.
Mặc dù rau quả có nhiều vitamin C, nhưng lại có hàm lượng sắt rất thấp. Ngũ cốc lại có hàm lượng phytate cao, ức chế hấp thu sắt rất tốt, phù hợp với người dư thừa sắt. Ngược lại ở những người thiếu sắt, nếu ăn quá nhiều ngũ cốc (gạo, lúa mì, đậu, mè…) sẽ làm ức chế hấp thu sắt trong thức ăn khác. Chất tanin trong trà và cà phê cũng ức chế hấp thu sắt tốt.
Ngoài việc ăn nhiều chất ức chế hấp thu sắt có nguồn gốc từ thực vật, việc giảm các loại thịt có nhiều sắt và thay thế chúng bằng các loại thịt ít sắt hơn, cũng giúp cơ thể ít dung nạp thêm sắt. Các loại thịt ít chứa sắt thường có màu trắng như thịt gà, cá, trứng. Trứng có chất phosvitin ức chế hấp thu sắt, theo nghiên cứu của Ishakawa. Các loại thịt nhiều sắt là thịt có màu đỏ như thịt bò, thịt heo, thịt trâu, thì nên hạn chế
Ngoài các loại thực phẩm ảnh hưởng lên việc hấp thu sắt, người bị ứ sắt nên hạn chế uống rượu, để tránh làm tổn hại thêm gan, dẫn đến xơ gan nhanh hơn.
Tóm lại, mặc dù sắt rất quan trọng cho cơ thể, tuy nhiên không phải ai cũng có thể ăn nhiều thực phẩm chứa sắt. Bệnh nhân bị những bệnh lý làm tăng nồng độ sắt trong cơ thể, có thể áp dụng chế độ ăn ít sắt để góp phần tăng hiệu quả điều trị.
Bác sĩ Lâm Vạn Phong* (theo TGHN)
————-
(*) Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, TP.HCM
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này