13:14 - 06/06/2020
June Almeida, ‘kẻ tầm thường’ phát hiện corona virus
Năm 1964, bà sử dụng kính hiển vi điện tử để nhận diện một tác nhân gây bệnh bí ẩn mà nhân loại chưa hề biết đến. Đó là virus corona đầu tiên gây bệnh cho người với “hậu bối” đáng sợ nhất SARS-CoV-2 gây đại dịch Covid-19.
Kỹ thuật viên không bằng cấp
Bà sinh năm 1930, tên khai sinh June Hart, con một tài xế xe buýt. Xã hội Scotland hậu thế chiến thứ 2 còn nhiều giai tầng, phụ nữ bị xem nhẹ, vì thế trong hoàn cảnh nhà nghèo và bản thân thiếu động lực học tập, Almeida đành bỏ học vào năm 16 tuổi.
Nhưng cũng lạ, lúc đó bà lại được nhận vào làm tập sự ở khoa mô học bệnh viện Glasgow, học nghề kiểm tra mẫu mô bằng kính hiển vi để chẩn đoán bệnh. Không học y khoa, không có kiến thức chuyên ngành, nhưng nhờ năng khiếu bẩm sinh cũng như khả năng lĩnh hội tuyệt vời, nên bà nhanh chóng thành công.
Sau đó bà chuyển đến London sống và kết hôn với nam nghệ sĩ người Venezuela Enriques Almeida. Cuối những năm 1950, hai vợ chồng cùng cô con gái nhỏ chuyển đến TP Toronto (Canada), ở đây Almeida làm việc cho viện Ung thư Ontario (nay là trung tâm Ung thư công chúa Margaret), nơi mà những kỹ năng làm việc hơn người của bà trên kính hiển vi điện tử được bộc lộ rõ rệt.
Kính hiển vi điện tử có độ phóng đại cao hơn kính hiển vi quang học, nhờ thế những phần nhỏ nhất của sự vật được phơi bày. Lý thuyết như thế, nhưng bạn phải có những “mưu mẹo” và giải pháp để thiết bị này cung cấp kết quả tốt nhất, nếu không bạn khó phân biệt đâu là virus, tế bào hay một cái gì khác.
Về phần mình, Almeida sử dụng kháng thể lấy từ bệnh nhân đã mắc bệnh để làm “kẻ chỉ điểm” virus. Kháng thể là “đối tác” của kháng nguyên, nên khi Almeida sử dụng những vi hạt bọc ngoài bởi kháng thể, chúng tập hợp quanh virus (kháng nguyên) và giúp kỹ thuật viên nhận dạng ngay virus.
Kỹ thuật xét nghiệm mới này thật đơn giản, nhưng lại tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực virus học, giúp chẩn đoán dễ dàng bệnh nhân nhiễm virus và vẫn áp dụng cho đến ngày nay. Sau đó, bà công bố nhiều nghiên cứu khoa học mô tả cấu trúc những virus trước đó chưa ai nhìn thấy (dù được biết đến!), như virus rubella gây biến chứng cho phụ nữ mang thai hay virus gây viêm gan siêu vi B. Bà cũng chuyển giao kỹ thuật cho nhiều nhà virus học khác để họ áp dụng, từ đó có được những khám phá quan trọng. Trong những người bà huấn luyện có Albert Kapikian, người dùng kính hiển vi điện tử để phát hiện norovirus, tác nhân gây bệnh dạ dày rất phổ biến là chứng nôn mửa mùa đông.
Không bằng cấp đại học, “kẻ tay ngang” trong y khoa, nhưng tài năng của Almeida lại được nhiều nơi biết đến, vì thế năm 1964 đại học y khoa bệnh viện St. Thomas ở London mời bà về làm việc. Chính tại nơi này bà phát hiện ra một trong những virus quan trọng nhất lịch sử nhân loại.
Chạm đâu cũng thành vàng
Trở lại Anh làm việc, Almeida cộng tác với TS David Tyrrell, người đang nghiên cứu về cảm lạnh. Trong khi xét nghiệm dịch tiết mũi các tình nguyện viên, Tyrrell nhận thấy thi thoảng xuất hiện một loại virus ít thấy. Con này gây bệnh cảm lạnh, nhưng khó nhận diện bằng giải pháp nuôi cấy tế bào thường quy.
Ngày nọ, Tyrrell nhờ Almeida phân tích mẫu bệnh phẩm ký hiệu B814 lấy ở một học sinh mắc bệnh vào năm 1960. Sau này, viết trong cuốn sách Cold Wars: The Fight Against the Common Cold (Chiến tranh lạnh: Cuộc chiến chống lại chứng cảm lạnh), Tyrell thừa nhận: “Chúng tôi không hy vọng lắm, nhưng cảm thấy đáng để Almeida làm thử xem sao, vì bà ấy có thể mở rộng tầm vóc kính hiển vi điện tử ra những giới hạn mới”.
Niềm tin đó được tưởng thưởng xứng đáng. Thật vậy, dù điều kiện làm việc hạn chế, nhưng nhờ kỹ năng làm việc hơn người, khi quan sát dưới kính hiển vi điện tử, Almeida lại phát hiện tác nhân gây bệnh trong mẫu B814 khá giống với virus cúm. Khi Almeida, Tyrrel và người sếp của Almeida ngồi lại đánh giá kết quả, họ cảm nhận đó là một nhóm virus mới. Vẻ ngoài virus giống vầng hào quang hay vương miện, nên họ quyết định đặt tên cho nó theo tên Latinh: Corona.
Năm 1965, Almeida gửi kết quả nghiên cứu cho một tạp chí khoa học công bố, nhưng người ta từ chối vì hình ảnh quá mờ, không thể phân biệt virus cúm và virus mới. Hai năm sau, năm 1967, những hình ảnh đầu tiên của virus mới được công bố lần đầu trên tạp chí Journal of General Virology và được mọi người biết đến. Sau đó, June Almeida làm luận án tiến sĩ ở đại học Postgraduate Medical School tại London và được công nhận học vị này.
Năm 1985, Almeida về hưu nhưng vẫn hoạt động mạnh mẽ. Bà trở thành giáo viên dạy yoga, đam mê đồ cổ, cùng sở thích với người chồng thứ hai Phillip Gardner, cũng là một nhà virus học về hưu. Khi dịch HIV/AIDS bùng phát trên thế giới, bà quay lại bệnh viện St. Thomas làm việc trong vai trò cố vấn và giúp công bố những hình ảnh chất lượng cao đầu tiên của HIV, virus gây bệnh AIDS.
Những người làm việc chung với Almeida đều đánh giá cao tài năng của bà. Giáo sư Hugh Pennington, chuyên gia vi khuẩn học tại đại học Aberdeen, làm việc với Almeida thời trẻ và xem bà như “người cố vấn” của mình, nói: “Bà ấy có một năng lực ngoại lệ và trong nghiên cứu chạm vào đâu cũng thành vàng”.
Trong khi môi trường nghiên cứu khoa học vẫn còn kỳ thị và xem thường phụ nữ, Almeida luôn kiên định như để khẳng định nữ giới không thua gì nam giới. “Bà ấy phản ứng mạnh mẽ trước bất kỳ chỉ trích nào và thường đúng”, Pennington nói.
June Almeida mất năm 2007 ở tuổi 77. 13 năm sau khi bà qua đời, trong khi thế giới đối mặt với những thiệt hại nặng nề do Covid-19, thành quả của bà lại được đề cập. Nhờ kỹ thuật xét nghiệm của Almeida giới khoa học Trung Quốc nhận diện nCoV hay SARS-CoV-2 gây ra Covid-19. Nhưng khi trả lời phỏng vấn tờ The Herald, Pennington gọi đó là sự mỉa mai, vì nhà khoa học lừng danh người Scotland bị lãng quên, chỉ được nhắc đến thông qua… một đại dịch bùng phát.
Vô Thường (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này