13:58 - 07/03/2020
GS.TS Trần Tịnh Hiền: ‘Chống dịch cần minh bạch và quyết liệt’
GS.TS Trần Tịnh Hiền là một tên tuổi quen thuộc của ngành nhiễm trùng khi gần như dành trọn cả đời nghiên cứu chống lại bệnh sốt rét và một trong những người đi đầu trong cuộc chiến chống SARS, cúm A/H5N1… tại Việt Nam.
Giữa tháng qua, tại căn phòng làm việc riêng ở Đơn vị nghiên cứu lâm sàng đại học Oxford (OUCRU) Việt Nam, ông chia sẻ: “Một trong những kỷ niệm nghề nghiệp đáng nhớ nhất của tôi là đưa ra quyết định cuối cùng về việc cho phép một tàu nước ngoài cập cảng Sài Gòn hay không, khi trên tàu có một người bị nghi nhiễm SARS. Đó là một chiều nóng bức của tháng 4/2003, tôi nhận được điện thoại của sở Y tế TP.HCM lệnh thành lập một toán y tế ra Vũng Tàu vì có bệnh nhân nghi mắc SARS. Đoàn gồm tôi, bác sĩ Chính, bác sĩ Diệp (vi sinh), hai kỹ thuật viên X-quang và máy X-quang di động của US Army sản xuất vào năm… 1949.
Trên đường đi, thông tin cập nhật cho biết một bệnh nhân trên tàu từ Hong Kong xuôi về Nam bị sốt, ho, có thể mắc SARS. Nhưng đó không phải là chiếc tàu thường mà là một tàu du lịch (cruise) chở khoảng 2.000 du khách “xịn” đa số từ châu Âu.
Tàu định cập Hải Phòng nhưng bị từ chối. Đà Nẵng lắc đầu, Khánh Hoà cũng không chấp thuận. Tàu cầu cứu thế nào và TP.HCM được lệnh cử người ra kiểm tra bệnh nhân và quyết định có cho tàu vào bến Nhà Rồng hay không. Tôi hỏi ai là người ra quyết định sau cùng: Chính phủ, bộ Y tế hay sở Y tế TP.HCM? Câu trả lời từ trên như sét đánh ngang tai: “Người trực tiếp khám bệnh!””
– Một tình huống thật sự khó khăn, có lẽ ông rất lo sợ?
– Lo sợ chứ. Nhưng chưa hết, thoạt đầu cả đoàn ai cũng nghĩ khám bệnh nhân rồi về, nào ngờ ra đến nơi mới té ngửa tàu chưa đến nhưng khi đến thì phải dừng ở phao số 0 ngoài xa chờ quyết định, và tôi phải ra đó trực tiếp kiểm tra.
Đến Vũng Tàu, cả đoàn được đưa vào nghỉ ngơi ở trung tâm kiểm dịch Vũng Tàu chờ giờ xuất phát. Không ai ngủ được, phần vì nóng, phần vì ai cũng lo không biết tình hình ra sao, bởi mới trước đó bác sĩ Carlos Urbani, đại diện tổ chức Y tế thế giới (WHO) Việt Nam đã tử vong ở Bangkok sau khi chuyển đến từ Hà Nội.
Là một bác sĩ ký sinh trùng, bác sĩ Carlos Urbani khá gần gũi với bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM. Ba ngày trước khi vào bệnh viện Việt Pháp (Hà Nội) kiểm tra bệnh nhân SARS đang điều trị tại đó, ông còn dự một buổi sinh hoạt chuyên môn ở bệnh viện chúng tôi về sán lá gan. Ông hứa với tôi sẽ cho Triclabendazole, vì khi đó không có thuốc mà một liều giá đến cả 100 USD. Thế mà chỉ sau vài tuần nhiễm chủng virus mới SARS-CoV ông ra đi vì suy hô hấp.
Thật tình khi nghĩ đến căn bệnh nguy hiểm mới mẻ mà thế giới chưa tìm được thuốc chữa, chúng tôi ai cũng sợ, nhưng bổn phận người thầy thuốc thì phải làm. Phần tôi, nỗi lo càng nhiều hơn vì trách nhiệm quá nặng nề: phải quyết định cho tàu cập bến cảng Sài Gòn hay không. Du khách nước ngoài đến, đất nước sẽ tạo dựng được hình ảnh tốt đẹp cho ngành du lịch, chưa kể còn có nguồn thu ngoại tệ khi khách lên bờ mua sắm. Nhưng lỡ mà SARS thì thành phố sẽ lãnh đủ như Hà Nội trước đó.
– Kết quả sau cùng như thế nào, thưa ông?
– Chuyện gì đến rồi cũng đến. Lúc 1 giờ sáng, điện thoại reo lên từ bên kiểm dịch thông báo chuẩn bị khởi hành. Trời tối đen như mực, mưa lất phất, cả đoàn leo lên một chiếc tàu cao tốc. Trong cabin, tôi đứng cạnh tài công, xa xa chỉ thấy 2 – 3 ngọn đèn nhấp nháy. Không ai nói với ai một lời nào. Bỗng nhiên tôi liên tưởng cảnh toán cảm tử trong cuốn phim nổi tiếng Les Canons de Navarone (Đại pháo thành Navarone), từng được đề cử nhiều giải Oscar vào năm 1962, với David Niven và Anthony Quinn vượt sóng đổ bộ lên đảo Kheros.
Sau hơn một giờ lắc lư thì đây rồi, cả một thành phố nổi sáng rực đèn hiện ra, chiếc cruise sừng sững đầu hướng ra biển. Từ máy bộ đàm léo nhéo tiếng được tiếng mất của cảng vụ cho biết phải lên tàu bằng thang dây thừng. Đúng ra thân tàu phải xoay ngang cản bớt gió và sóng, đàng này nó lại nằm xuôi nên mấy tàu nhỏ bị nhồi dữ dội khi áp mạn tàu lớn. Những người bên kiểm dịch và cảng quá quen nên họ nhanh chóng chụp lấy thang, còn những bác sĩ chúng tôi khó khăn lắm mới bám được thang dây như loại dành cho lính thuỷ xuống tàu đổ bộ. Tội nghiệp bác sĩ Chính, ông đi giày “cuir” bám thang từ từ bò lên. Tôi đi bata vì kinh nghiệm chống dịch nên leo lên khá dễ. Phía trên vài nhân viên của thuỷ thủ đoàn đang chờ.
Chúng tôi được dẫn qua một phòng ăn lớn có cầu thang giữa như tàu Titanic rồi vào phòng y tế, ở đây có đủ mọi trang thiết bị kể cả máy chụp X-quang. Một bác sĩ trẻ người Pháp tóm tắt sơ bệnh án cho chúng tôi nghe. Tôi hỏi bệnh sử kỹ như mọi khi: Ho xuất hiện khi nào? Sốt lúc nào? Đàm như thế nào? Rồi khám phổi và xem phim X-quang. Có vẻ đây là một bệnh nhân bị COPD (bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính). Hỏi đi hỏi lại mấy lần, nam bệnh nhân 54 tuổi người Đức cho biết không đi shopping ở Hong Kong, ho trước khi tàu đến Hong Kong, có hút thuốc lá, chỉ có sốt khi tàu rời cảng bên đó.
Tôi quyết định nhanh chóng, đây không phải SARS vì triệu chứng xuất hiện trước và không có tiếp xúc với người ở Hong Kong, chưa kể trên tàu không ai bị ho, sốt. Sau khi hội ý với bác sĩ Chính, tôi nói với bác sĩ trên tàu: “Tôi không nghĩ là SARS”. Ông ta cũng đồng ý và đòi ký biên bản. Bác sĩ Chính ngập ngừng, nhưng tôi bảo ký thì ký, mình khám sao thì ghi chẩn đoán như vậy và ghi: “Based on epidemiological factors (exposures, heavy smoker) and clinical features (low fever, no dyspnea, emphysema) SARS is very unlikely” (Dựa trên những yếu tố dịch tễ (tiếp xúc, hút thuốc nhiều) và bệnh cảnh lâm sàng (sốt nhẹ, không khó thở, khí thủng phổi) nhiều khả năng đây không phải SARS). Tôi ký tên cùng người bác sĩ trên tàu. Vì không thể chờ xét nghiệm phết họng do tàu chỉ dừng ở Sài Gòn 24 giờ, mà tàu cũng không thể chờ đợi ở phao số 0 do cấp trên muốn nếu không phải bệnh nhân SARS thì cho khách lên bờ shopping, thu được nhiều ngoại tệ, bởi toàn bộ họ là dân nhà giàu đi du lịch.
Xong công việc, người thuyền trưởng ra cám ơn chúng tôi, chào từ biệt và cũng không quên tặng hai gói quà. Chúng tôi mỗi người lại bò xuống thang dây để về tàu nhỏ. Hai chiếc “xà lúp” rú máy phóng đi. Tôi báo kết quả, ai cũng thở phào nhẹ nhõm.
Chuyện đã rồi (“les jeux sont faits”), chiếc cruise được cho vào cảng, khách xuống shopping từ 8 giờ sáng hôm đó. Không thay đổi được gì nữa. Trên đường về Sài Gòn, bộ Y tế, sở Y tế TP.HCM gọi tới tấp chúng tôi hỏi thông tin. Suốt cả ngày thứ bảy hôm sau, tôi mở điện thoại liên tục, chỉ đến khi nghe kiểm dịch báo tin báo tàu rời Việt Nam mới thấy hoàn toàn nhẹ nhõm. Hai ngày sau, tàu cập cảng Thái Lan an toàn.
– Quả là một kỷ niệm đáng nhớ, còn kỷ niệm nào của thời chống dịch cúm gia cầm H5N1 trên người sau đó?
– Đó là ca mắc cúm A/H5N1 đầu năm 2004. Khi đó là buổi chiều cuối cùng năm âm lịch mọi người đang tất bật chuẩn bị đón giao thừa, tôi cùng một số chuyên gia được mời sang hội chẩn một em bé nghi mắc cúm gia cầm tại bệnh viện Nhi đồng 2. Hai lá phổi bệnh nhân nát hết, nhưng em bé lại tỉnh táo và không có dấu hiệu khó thở. Đại diện tổ chức Y tế thế giới (WHO) thực hiện test nhanh, kết quả cho âm tính. Thế là mọi người đều thở phào nhẹ nhõm. Tuy nhiên, trên đường về nhà, tôi thấy có gì đó bất thường giữa lâm sàng và X-quang, mặt khác em bé cho biết trước đó có chơi đùa với vịt. Vịt chết, em bé mang đi chôn, rồi lại cùng anh đào lên mang đi chôn chỗ khác.
Tôi liền gọi về trao đổi với TS Jeremy Farrar, giám đốc của OUCRU lúc bấy giờ, và chúng tôi quyết định xét nghiệm lại bằng kỹ thuật chuyên sâu PCR. Đích thân tôi qua bệnh viện Nhi đồng 2 lấy mẫu thử, bỏ cẩn thận trong ba lô mang trên người và trở về bệnh viện Bệnh nhiệt đới để test. Tối đó, bà xã tôi kêu đi xem pháo bông ở trung tâm thành phố. Vừa xem, tôi vừa hồi hộp chờ kết quả. Khoảng 23 giờ 30 phút, TS Jeremy điện cho tôi thông báo kết quả… dương tính. Tôi hỏi lại: “Ông có đùa?” Nhưng TS Jeremy khẳng định chắc chắn.
Màn đốt pháo bông chấm dứt sau 12 giờ nhưng tôi không thể về nhà ngay, vì quá đông người. Phải tận 3 giờ sáng tôi và bà xã mới về được đến nhà ở quận 1. Sáng hôm sau là mồng một tết, 7 giờ tôi vào bệnh viện họp cùng với giám đốc sở Y tế, đại diện WHO và vài người. Đại diện WHO cho test lại lần nữa, kết quả cũng dương tính. Chúng tôi thông báo ngay cho lãnh đạo thành phố để quyết định có công bố ca bệnh hay không. Đại diện WHO cho biết, công bố hay không là quyền của Việt Nam, nhưng bổn phận của họ là thông báo với WHO về trường hợp này và không bảo đảm các hãng tin lớn như CNN, BBC nắm được tin sẽ đăng tải ngay.
Chúng tôi gọi cho bộ trưởng bộ Y tế Trần Thị Trung Chiến hỏi ý kiến, bà cho biết trước đó Hà Nội cũng công bố ca bệnh cúm H5N1 nên TP.HCM không có gì quá lo lắng. Thế là chiều hôm đó, chiều mồng một tết Giáp Thân 2004, TP.HCM công bố ca mắc cúm A/H5N1 đầu tiên trên người. Bệnh nhi được chuyển ngay từ bệnh viện Nhi đồng 2 về bệnh viện Nhiệt đới điều trị.
– Lần đầu tiên đối phó với những dịch bệnh nguy hiểm mang tầm vóc toàn cầu, có lẽ việc điều trị khi đó có nhiều khó khăn?
– Khi đó tôi là phó giám đốc bệnh viện Bệnh nhiệt đới kiêm trưởng khoa nhiễm D. Khoa này được chọn làm nơi điều trị bệnh nhân SARS, cúm gia cầm H5N1… vì là một khu nhà có nhiều phòng nhỏ dễ cách ly, nằm biệt lập, do người Pháp xây dựng trước đây. Thực tình trước đó chúng ta chưa từng đối phó với loại dịch bệnh nguy hiểm như thế này, đại dịch cúm lần cuối ở Hong Kong xảy ra lâu rồi, năm 1968 – 1969. Vì thế trang thiết bị bảo hộ cho nhân viên y tế thiếu thốn, có áo, nhưng không có khẩu trang chuyên dụng loại N95. Tôi có mượn được một số khẩu trang tốt hơn, nhưng loại này cũng không phải chuyên dụng, vì nó dùng để lọc nhiều thứ khác nhau.
– Là một bác sĩ dành trọn đời cho chuyên ngành nhiễm trùng, khi quan sát những vụ dịch trên thế giới trước đây và dịch Covid-19 hiện tại, theo ông bài học nào có thể rút ra để khống chế thành công dịch bệnh?
– Theo tôi, để khống chế tốt dịch bệnh có tính chất lây lan mạnh thì ngay từ đầu nhà quản lý phải minh bạch và có biện pháp quyết liệt. Đối với Covid-19, lúc đầu chính quyền địa phương Trung Quốc có biểu hiện che giấu, sau đó WHO lại tỏ thái độ lừng khừng không chịu công bố tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu (PHEIC) (*). Lý do không làm điều này có thể do người ta sợ gây hoảng loạn, thiệt hại kinh tế, nhưng cuối cùng kết quả cho thấy dịch bệnh bùng phát khắp nơi, số ca mắc và tử vong tăng cao, thiệt hại kinh tế cao gấp nhiều lần so với việc công bố sớm. Trong chống dịch, nếu không minh bạch từ đầu các nhà dịch tễ học không thể nào có được dữ liệu chính xác để modeling (xây dựng mô hình) dự báo về số ca mắc, ca tử vong, khi nào dịch lên đỉnh rồi đi xuống.
– Việt Nam là một trong vài quốc gia tiến hành thử nghiệm thuốc điều trị virus corona chủng mới. Có những tranh cãi khác nhau về chuyện này, quan điểm của ông như thế nào?
– Có nhiều ý kiến khác nhau trên mạng xã hội, nhưng theo tôi bộ Y tế làm điều này đúng vì trước mắt chúng ta cần một loại thuốc đặc trị hiệu quả. Trong hoàn cảnh cấp bách này, không thể nào thiết kế một nghiên cứu lớn và bài bản được, vì lấy bệnh nhân ở đâu và rất phức tạp. Do đó phải làm theo kiểu PoC (proof of concept), nghiên cứu bằng chứng – khái niệm nghĩa là đánh giá tiềm năng xem thuốc này có tác dụng đến đâu; chưa cần nhiều ca bệnh, chỉ mười ca cũng đủ; trước mắt đánh giá khả năng diệt virus trên bệnh nhân. Làm nghiên cứu này cần thực hiện ở những trung tâm lớn có điều kiện xét nghiệm RT-PCR mỗi ngày theo dõi tải lượng virus (viral load) trên bệnh nhân, cũng như theo dõi lâm sàng. Hiện nay, những loại thuốc trị HIV là ứng cử viên hàng đầu trong thử nghiệm điều trị Covid-19. Ngoài ra, còn một số loại thuốc khác, chẳng hạn như thuốc chữa sốt rét chloroquine cũng từng được thử nghiệm trong điều trị SARS, MERS và tỏ ra khá hiệu quả trong phòng thí nghiệm. Dĩ nhiên sau này khi dịch bệnh bị đẩy lùi và có điều kiện thích hợp, chúng ta sẽ làm nghiên cứu mù đôi ngẫu nhiên bài bản và cũng cần phải làm như thế.
Phan Sơn thực hiện (theo TGHN)
(*) Sáng sớm ngày 31/1/2020, sau khi biết tin WHO tuyên bố tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu (PHIEC), từ Mỹ, BS Trần Tịnh Hiền đã nhắn với người thực hiện bài phỏng vấn: “WHO đã đáp ứng quá trễ!” Trước đó, ngày 24/1, ông đã đăng trên Twitter bày tỏ sự thất vọng khi WHO không ra tuyên bố PHEIC sau cuộc họp đầu tiên: “Trong dịch cúm H1N1 2009, ngày 15/4/2009 khi Mỹ ghi nhận ca bệnh đầu tiên ở California, ngày 25/4 WHO tuyên bố PHEIC khi có 1.882 ca bệnh tại 26 quốc gia. Còn lúc này, với nCoV 2019, đã có 584 ca mắc, 18 ca chết ở bảy quốc gia, bốn thành phố Trung Quốc đóng cửa, thế mà WHO vẫn không ra PHEIC!”
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này